Đời sống hôn
nhân và hình ảnh về đời sống này đang bị ảnh hưởng của những trào lưu tiến hóa,
những tư tưởng và lối sống tự do làm đảo lộn, và biến dạng. Nhiều người hoang
mang và tự hỏi: "Thế nào là một hình ảnh trung thực về hôn nhân, và thế
nào là đời sống hôn nhân đúng nghĩa?".
NHỮNG HIỆN TƯỢNG MỚI VỀ HÔN NHÂN
Ngày nay
nhiều nơi trên thế giới, và riêng tại Hoa Kỳ, tình trạng trai gái sống chung
với nhau không hôn thú đã trở thành một lối sống được xã hội chấp nhận. Trai
gái, đàn ông đàn bà cứ việc sống thoải mái với nhau như vợ chồng, có con với
nhau. Họ vẫn coi nhau như bạn trai, bạn gái hoặc tình nhân, chừng nào thấy
không thích thì tìm người khác.
Về mặt luân
lý và xã hội, không những danh từ ngoại tình không còn ý nghĩa nữa, mà những
danh từ khác như hoang thai, chửa hoang thường dùng để gọi những phụ nữ không
lập gia đình mà có thai và có con, cũng được thay thế bằng những mỹ từ như
single mother (người mẹ đơn chiếc), hoặc có thai ngoài hôn nhân. Người ta không
còn ngại ngùng, xấu hổ khi nói về tình trạng hoang thai, hay con của họ là
những người con không cha nữa, vì ly dị đã mang tính cách phổ biến.
Theo thống
kê tại Hoa Kỳ, những người mẹ đơn chiếc đã chiếm hơn 60% những gia đình do phụ
nữ làm chủ, và những người cha đơn chiếc chiếm hơn 40% những gia đình do đàn
ông làm chủ. Số gia đình còn lại khoảng 30% không do ai làm chủ cả. Số này bao
gồm những thành phần độc thân, đồng tính luyến ái, hoặc trai gái sống chung với
nhau.
Cũng theo
tài liệu thống kê cho thấy trong năm 1991, có 2.371.000 vụ kết hôn thì đã có
1.187.000 vụ ly dị, tức trung bình cứ hai cặp kết hôn có một cặp ly dị.
Hiện tượng
đồng tính luyến ái tại các quốc gia Âu Mỹ cũng đang làm biến thái đời sống hôn
nhân bằng những cuộc tình và những hôn nhân giữa hai người cùng phái tính. Hai
người đàn ông con trai, hoặc hai người đàn bà con gái sống với nhau như vợ
chồng, trao đổi tình dục với nhau, và gọi nhau là người yêu.
Trong khi
những cuộc tranh luận còn đang ồn ào xẩy ra về tính chất luân lý, xã hội, và
tâm lý của nhóm người này, ngày 8 tháng 2 năm 1994, Nghị Viện Âu Châu với 159
phiếu thuận và 94 phiếu chống, đã cho phép những người đồng tính luyến ái được
quyền làm hôn thú theo luật định, và cho những cặp vợ chồng này được quyền nhận
những con nuôi. Một số tôn giáo, những nghi thức hôn nhân tôn giáo đã được cử
hành cho những cặp vợ chồng này.
Đời sống hôn
nhân và quan niệm về hôn nhân như trên đối với phần đông người Việt Nam là một điều
không thể chấp nhận. Nói như thế không có nghĩa là ảnh hưởng của các trào lưu
hôn nhân mới mẻ kia không vào được nhà của người Việt Nam. Một nghiên
cứu gần đây của một giáo sư đại học ở San
Diego đã cho biết tỷ lệ ly dị trong các gia đình người
Việt tại Hoa Kỳ là 42%. Đó là chưa kể tình trạng của những người đã bỏ nhau
nhưng không ly dị và đang sống với người khác như vợ chồng. Nhiều tác phẩm và
nhiều nghiên cứu đã được viết hoặc trình bày về đề tài hôn nhân. Mỗi cuốn khảo
cứu về một khía cạnh khác nhau với những lối nhìn khác nhau. Đời sống hôn nhân
phức tạp thế nào, các sách vở viết về hôn nhân cũng phức tạp như vậy.
Có những tác
phẩm trình bày khuynh hướng trữ tình, tự do luyến ái, tự do kết hôn, hôn nhân
đồng tính luyến ái, hoặc hôn nhân lãng mạn. Đời sống hôn nhân theo khuynh hướng
và lối sống của thời đại bao gồm giữa tình yêu, tình bạn, và tiền bạc. Thí dụ,
hai vợ chồng sống chung với nhau dưới một mái nhà, nhưng tiền của ai làm người
nấy giữ. Tiền ăn, tiền ở, tiền trang trải việc nuôi nấng con cái mỗi người bỏ
ra một nửa. Một cuộc sống sòng phẳng, tự do và không bị ràng buộc. Nếu không
thấy thoải mái với nhau, họ sẵn sàng ly dị và đi tìm một cuộc tình mới một cách
tự nhiên, không thắc mắc.
Nhưng đa số
các tác phẩm trình bày về hôn nhân đều ca tụng nếp sống gia đình, đề cao những
giá trị hôn nhân gia đình, đề cao trách nhiệm của hôn nhân như bổn phận người
chồng, bổn phận người vợ, tình yêu, và lòng chung thủy. Và mặc dù viết về hôn
nhân và những giá trị của hôn nhân, phần lớn các tác phẩm này chú trọng nhiều
đến hình thức tiểu gia đình, khía cạnh tự do hôn nhân, thái độ bình quyền, hình
thức chia sẻ trách nhiệm và bổn phận.
Riêng đối
với những tác phẩm trình bày về hôn nhân bằng Việt ngữ, đa số thuộc loại dịch
thuật, diễn tả những mô thức hôn nhân xa lạ với thực tế xã hội và cuộc sống
người Việt. Do đó, đối với độc giả Việt Nam, những tác phẩm như thế chỉ
đóng vai trò giới thiệu hơn là giáo dục, hoặc hướng dẫn.
Đối với
những tác phẩm do người Việt viết hay sáng tác, phần lớn thuộc loại phóng tác.
Nội dung thường chứa đựng những lời Thánh Kinh, những lời răn dạy của Khổng Tử,
những câu ca dao, tục ngữ về hôn nhân và gia đình. Mục đích những tác phẩm này
là nêu lên những lý tưởng và mẫu mực cho đời sống hôn nhân, trình bày những mẫu
gia đình có nề nếp gia phong và lý tưởng. Khi cần giải quyết các vấn đề đang
làm đổ vỡ nhiều gia đình, phần lớn các tác giả chỉ quan tâm đến những khía cạnh
luân lý, đạo đức, hay thanh danh gia đình, mà ít khi đề cập đến những gì đang
xẩy ra chung quanh cuộc sống có ảnh hưởng đến hạnh phúc hôn nhân.
Trước những
biến thái về hôn nhân ngày càng lan rộng do ảnh hưởng của những triết lý sống
mới, ai cũng cho rằng những hiện tượng tha hóa đó đang gây nên những rạn nứt,
làm sụp đổ nền móng của tòa nhà hôn nhân, và làm biến dạng gia đình và văn hóa
thế giới. Nếu chỉ quảng diễn hôn nhân theo những khuôn mẫu đạo đức cổ kính và
truyền thống sẵn có, ta dễ trở thành xa lạ và lập dị. Vì thế, muốn thăng tiến
hôn nhân, muốn giữ được bản chất giá trị của nền tảng gia đình, điều cần thiết
là phải nghiên cứu và tìm được những lý do tại sao khiến nhiều người coi
thường, và không quí trọng những giá trị đó nữa.
CÁI NHÌN KHÁI QUÁT VỀ HÔN NHÂN
Hôn nhân có
thể được định nghĩa bằng nhiều cách. Tùy theo phong tục, tập quán của mỗi quốc
gia, mỗi dân tộc, và cũng tùy theo tiến trình tiến hóa của nhân loại, hôn nhân
được quan niệm thế này hoặc thế khác. Nhưng ý nghĩa cuối cùng và căn bản nhất
của hôn nhân vẫn là một cuộc sống lứa đôi giữa người chồng và người vợ.
Trong cuộc
sống hôn nhân, người chồng và người vợ được trói buộc bằng những sợi giây vô
hình nhưng bền vững gồm sợi giây tình cảm, sợi giây tình yêu, sợi giây tình
dục, sợi giây luật pháp, sợi giây luân lý, và sợi giây tinh thần. Tất cả những
ràng buộc này có một mục đích rõ ràng là nhằm củng cố, thắt chặt mối tình và
đời sống của hai người, giúp họ vượt qua những khủng hoảng, những sóng gió cuộc
đời, và để họ cùng nhau tạo lập một cuộc sống hạnh phúc.
NHÃN QUAN TINH THẦN:
Trong khi
ảnh hưởng của trào lưu tư tưởng mới đang biến đổi đời sống hôn nhân, đôi khi
thái quá đến trở thành biến dạng đời sống này tại nhiều quốc gia tân tiến trên
thế giới, thì đối với phần đông người Việt Nam, hôn nhân vẫn được tôn trọng qua
hình thức tôn giáo và truyền thống.
Đa số người
Việt Nam
vẫn còn nhìn hôn nhân bằng một cái nhìn mang nhiều tính chất thần linh. Dưới
nhãn quan tôn giáo, hôn nhân là một cơ duyên trời định.
Khi bàn về
hôn nhân, phần đông người Việt Nam
cho rằng hôn nhân của họ là do trời cao đã xếp đặt, đã thúc đẩy, và đã tạo cơ
hội để họ nối kết với nhau. Hình ảnh ông tơ, bà nguyệt chính là những hình ảnh
thực tế hóa của suy luận tâm linh về ý nghĩa tiền định trong hôn nhân đối với
người Việt Nam.
Để diễn đạt
ý nghĩa quan trọng và siêu nhiên của niềm tin đối với hôn nhân, nhiều người đã
liên kết hôn nhân của họ với định mệnh, và coi đó như "thiên duyên",
"duyên phận", hay "duyên kiếp". Một số người còn mê tín
trao phó cả tương lai của mình cho số mệnh mà họ nghĩ là đã được sắp đặt từ
Thượng Đế.
Trong ngày
vui mừng của đôi tân hôn, mọi người trong gia đình, gia tộc hai bên đều cầu
chúc cho cô dâu, chú rể sống lâu trăm tuổi, sắt cầm hòa hợp, đông con, nhiều
cháu. Những lời chúc này phản ảnh sự tin tưởng vào hoa trái tinh thần và phúc
lộc cao cả của đời sống hôn nhân.
Lịch sử văn
hóa Việt Nam đã cho thấy trong quá khứ, xã hội Việt Nam vì bị ảnh hưởng sâu đậm
tư tưởng Nho Giáo, nên quan niệm hôn nhân trên ngoài việc nâng cao giá trị đời
sống tinh thần của những ai sống trong đời sống hôn nhân, nó cũng là một điều
yên ủi, có khả năng làm lắng dịu những bùng nổ trong tâm tư nhiều người, nhất
là nữ giới giữa một xã hội trọng nam, khinh nữ. Giữa một triết lý sống mà người
đàn ông được coi như chúa tể trong gia đình và ngoài xã hội, còn người đàn bà
chỉ là phụ thuộc.
Ngày nay,
ảnh hưởng của những tư tưởng trên tuy không còn mạnh mẽ nữa, nhưng nhiều đàn
ông Việt Nam vẫn cố bám bứu vào đó, và vẫn còn ngụy biện ý nghĩa đạo đức khi
dùng tam tòng, tứ đức của Nho Giáo để giải thích những hành động sai trái của
họ trong hôn nhân. Tuy nhiên, đối với nhiều phụ nữ Việt Nam lúc này, những lối
giải thích đó đã không trả lời thỏa đáng những vấn nạn về vai trò của nữ giới
trong hôn nhân, giữa một thế giới đang biến chuyển do những tư tưởng nam nữ
bình quyền, tự do yêu thương, bổn phận và trách nhiệm.
Nhưng bên
ngoài lớp vỏ sần xùi và nặng nề của hình thức mà nhiều người Việt nam vẫn
thường cho là đạo đức đó, hôn nhân của người Việt Nam có rất nhiều điểm tương
đồng với quan niệm hôn nhân của những dân tộc ảnh hưởng Kitô Giáo. Khi đề cập
đến hôn nhân theo nhãn quan tôn giáo, phần đông người Việt Nam tuy không dùng
từ ngữ "bí tích" hoặc "ơn gọi" để nói về cuộc sống này,
nhưng vẫn coi hôn nhân như một sự ràng buộc tinh thần. Ngoài ra, những hành
động của đời sống hôn nhân cũng được coi như một đạo lý sống, gọi là đạo vợ chồng.
Người ta có thể nhìn thấy tính chất tôn giáo trong bất cứ một đám cưới nào tại
Việt Nam.
Trong ngày thành hôn, cô dâu và chú rể phải đến thánh đường, chùa miếu, thánh
thất, hoặc trước bàn thờ tổ tiên tại tư gia để trao cho nhau lời hôn thệ, và để
được chúc phúc.
Đạo lý hôn
nhân của người Việt Nam,
nếu được phân tích một cách kỹ lưỡng và khách quan, nó cũng diễn đạt cùng một
tư tưởng mà Kitô Giáo đã quan niệm về hôn nhân. Theo Kitô Giáo, cuộc sống hôn
nhân bắt nguồn từ Thượng Đế. Thánh Kinh Kitô Giáo kể rằng, trong buổi đầu tạo
dựng, Thượng Đế đã tạo nên con người bằng bùn đất, thổi sinh khí vào và làm cho
sinh động. Sau đó, Ngài cho Adong ngủ say, lấy một xương sườn của Ông làm nên
Evà, rồi dẫn đến trước mặt Adong, khiến Ông đã sửng sốt thốt lên: "Đây là
xương của xương tôi, thịt của thịt tôi" (Gn 2:23). Thượng Đế đã chúc phúc
cho sự kết hợp giữa hai người khi nói với họ: "Hãy sinh sản ra nhiều trên
mặt đất, và hãy thống trị trái đất"(Gn 1:28). Có lẽ do lời chúc phúc này
mà người Việt Nam
coi việc đông con, nhiều cháu là hoa trái tốt của hôn nhân.
Bức tranh
sáng tạo, và đôi vợ chồng đầu tiên của lịch sử nhân loại đó, sau này đã được
Đức Kitô vẽ lại khi trả lời những tranh biện của người Do Thái đương thời về
luật ly dị. Lợi dụng dịp này, Ngài đã tái xác định giá trị tinh thần của hôn
nhân, và nói với họ rằng từ đầu Thượng Đế đã không có ý định cho phép con người
ly dị. Rồi Ngài khẳng định: "Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, con người không
được phân ly" (Mt 19:6). Điều Đức Kitô trả lời cho người Do Thái, cũng chính
là tư tưởng về đạo sống vợ chồng của người Việt Nam, đó là "nhất phu, nhất
phụ" - một vợ, một chồng.
BỔN PHẬN VÀ TRÁCH NHIỆM:
Như trên vừa
trình bày, quan niệm hôn nhân của người Việt Nam đã bị ảnh hưởng sâu đậm tư
tưởng và đạo lý của Nho Giáo. Những tư tưởng này đặt nặng bổn phận và trách
nhiệm hôn nhân, trực tiếp liên quan tới đời sống đại gia đình.
Nhưng cũng
như sự lạm dụng lối diễn đạt ý nghĩa tinh thần, trách nhiệm và bổn phận hôn
nhân của Nho Giáo đã bị bóp méo qua những cắt nghĩa lệch lạc hoặc chủ quan của
một số người. Vì thế, khi bước vào đời sống hôn nhân, nhiều thiếu nữ đã khóc
không phải chỉ vì vui với đời sống mới, nhưng vì lo sợ cho viễn ảnh tương lai
của mình. Bị đối xử tàn tệ ở nhà chồng. Bị làm lụng vất vả và bị sai khiến như
những người ở. Nhiều phụ nữ trong xã hội Việt Nam, cho đến nay vẫn còn bị ám
ảnh rằng họ phải có nhiệm vụ sinh con, để chồng có con nối dõi tông đường. Vì
thế, để diễn tả biến cố một người con trai và một người con gái bước vào đời
sống hôn nhân, người Việt Nam
đã dùng từ ngữ "lập gia đình" hay "đi gánh vác".
Thật ra, ý
nghĩa cuối cùng của hôn nhân theo Nho Giáo, không phải chỉ là những gò bó và
trói buộc bằng những luật lệ vô lý, khe khắt, và thiếu uyển chuyển. Cũng không
phải chỉ chú tâm vào những trách nhiệm đối với nhà chồng, nhà vợ, với họ hàng
bên chồng hay họ hàng bên vợ, với đại gia đình hai bên. Trách nhiệm chính của
hôn nhân phải hiểu là những bổn phận trực tiếp liên quan đến một gia đình mới
giữa hai vợ chồng, và những trách nhiệm liên quan đến cuộc sống mới của hai
người.
Khổng Tử
luôn đề cao vai trò đạo đức trong mọi góc cạnh của cuộc sống con người, kể cả
đời sống hôn nhân. Như vậy, đạo vợ chồng đúng nghĩa theo Nho Giáo, trước hết là
phải chu toàn cách tốt đẹp bổn phận và trách nhiệm của người chồng đối với vợ,
và người vợ đối với chồng. Ở quan niệm này ta mới tìm thấy ý nghĩa đẹp đẽ mà vợ
chồng thường dùng gọi nhau, và đã được thực tế hoá bằng một từ ngữ hết sức đơn
sơ nhưng rõ ràng, đó là người vợ hay người chồng nói về nhau trước mặt người
khác là "nhà tôi". Nhà tôi hôm nay bận công việc ở sở làm. Nhà tôi
mới đi công chuyện.
Hình ảnh
diễn tả cuộc sống mới, phải bắt nguồn từ một căn nhà nhỏ bé trong đó có hai
người đã thề nguyền yêu nhau, và cùng nhau xây dựng hạnh phúc. Chính trong căn
nhà tinh thần của đời sống hôn nhân, và căn nhà vật chất của hai người đang ở
đó, tình yêu họ sẽ triển nở, và những người con trai, con gái của họ sẽ chào
đời.
Rồi trong
trách nhiệm tương thân, tương ái, và đồng thuận, họ mới có thể gọi nhau bằng
"mình". Mình ơi! Tôi yêu mình. Mình ơi! Tôi thương mình. Đại danh từ
tôi, ở những câu nói này tuy rất mộc mạc, đơn sơ nhưng nói lên và đại diện rõ
ràng cho một người, mà người đó không phải là ai khác hơn là chính tôi.
Vợ chồng gọi
nhau bằng mình tuy không lãng mạn, tình tứ như khi gọi nhau bằng cưng, bằng
người yêu, bằng em, hoặc bằng anh. Nhưng cưng, người yêu, em, hoặc anh vẫn nói
lên một cái gì còn xa lạ, còn cách biệt, và không cận kề, không thuộc trọn về
tôi, như khi tôi nói với chính mình tôi.
Mình là gì?
Nếu không phải là "xương của xương tôi, thịt của thịt tôi", mà Adong
đã vui mừng diễn tả khi đứng trước người yêu của Ông. Và mình là gì, nếu không
phải là chính con người của tôi, của anh, hay của chị. Gọi vợ hay chồng bằng
"mình", có lẽ là một lối diễn tả đẹp đẽ nhất, thân thiết nhất, mà chỉ
người Việt Nam
mới có.
Vì mình là
tôi, và tôi là mình, nên dẫn đến ý nghĩa của sự kết hợp vợ chồng một cách trọn
vẹn, chặt chẽ đến độ: "Hai ta tuy hai mà một, tuy một mà hai". Hai
tâm hồn, hai thân xác nhưng sẽ trở thành một trong hôn nhân. Ý nghĩa này chỉ
tìm thấy trong hôn nhân mà thôi. Kitô Giáo cũng đề cập tới sự kết hợp này qua
việc trình bày về hôn nhân giữa Adong và Evà: "Người đàn ông sẽ luyến ái
vợ mình, và cả hai trở nên một huyết nhục" (Gn 2:24).