Thứ Năm, 17 tháng 7, 2014

Ngồi Thiền Kitô Giáo - Đỗ Trân Duy

Đăng lúc: Thứ sáu - 23/08/2013 01:10 - Người đăng bài viết: Quản Trị Site
Ngồi Thiền Kitô Giáo
Ngồi Thiền Kitô Giáo














Người Việt biết thiền qua các dòng tu Phật Đại Thừa và Thiền Tông trung Hoa. Vì vậy Kitô hữu Việt thường ái ngại khi nói đến thiền vì tin rằng đó là một sản phẩm Phật giáo. Thực ra thiền bắt nguồn từ nền minh triết Ấn Độ và đã có trước khi Phật Thích Ca ra đời. Vào thế kỷ III thiền được phổ biến qua Seria và Jordan. Thế kỷ X thiền truyền qua Nhật bản, Âu Châu và đại lục Sôviết. Đến thế kỷ XVIII hầu hết các nước trên thế giới đều biết đến thiền. Qua những giao thoa văn hóa, thiền biến thái thành nhiều môn phái. Ngay Thiền Tông Trung Hoa, mà người Việt quen thuộc, cũng chia ra nhiều phái, nào Nam Tông, Bắc Tông, Tào Động, Lâm Tế…Vì vậy không thể đưa ra một dạng cụ thể nào làm mẫu mực khi nói về thiền.
“Thiền” theo nguyên ngữ Phạn (Sanskrit) là “dhyana”. Phật Thích Ca đọc theo âm Pali của ngài là “jhana”. Chữ jhana chuyển qua Tạng ngữ là “dzogchen” và qua Hoa ngữ là “ch’an”. Từ ch’an chuyển qua Nhật ngữ là “zen” và chuyển qua Việt ngữ là “thiền”. Zen được người Tây phương giữ nguyên chữ zen hoặc dịch là meditation. Chữ meditation (chiêm niệm) đã có từ rất lâu trong ngôn ngữ Thiên Chúa giáo phương Tây. Vì vậy để mặc cho nó một nghĩa mới, nhiều nơi người ta dùng chữ Christian meditation (thiền Kitô). Tóm lại từ “dhyana” trở thành “thiền” là một phiên âm sai lạc qua nhiều chặng đường. Thiền tự chính nó không có bóng dáng một tôn giáo nào.
Chiêm niệm bắt đầu từ thời sơ khai của giáo hội và chỉ dành riêng cho các tu sĩ. Sử có ghi vào thế kỷ III nhiều tu sĩ vào sa mạc để sống đời chiêm niệm. Theo khái niệm chiêm niệm thời cổ, chúng ta hiểu là có gắn bó với thiền. Ngay danh xưng monk (tu sĩ) và monastery (tu viện) đã nói lên thâm ý của các tổ phụ chiêm niệm. Monk và monastery cùng có gốc Hy Lạp “monos” nghĩa là đơn độc. Theo truyền thuyết, đã có nhiều tổ thiền nổi danh như Moses, Poemen, Joseph… Câu nói đầy thiền tính của tổ phụ Moses là: “Hãy về tĩnh tọa trong phòng. Căn phòng sẽ dạy ta mọi sự.” Tuy nhiên những vị tổ này đều sống ẩn tu nên người đời sau không biết nhiều về họ. Một tôn sư được lịch sử nhắc tới là thánh Pantaenus với một cuộc đời đầy huyền thoại. Sử cho biết ngài đã sống ở Ấn Độ và được truyền thụ dhyana. Thánh Pantaenus sau đó truyền dhyana cho đệ tử là thánh Clement. Clement truyền lại cho Origen. Năm 300 thánh Paul lập tu viện ở núi Thebes bên Ai Cập. Thánh Paul là vị ẩn danh nên không để lại vết tích nào. Năm 310 thánh Anthony (250-356) thành lập tu viện trên núi Cairô qui tụ hằng ngàn tu sĩ sống đời chiêm niệm và tu thiền. Atanasius, Giám Mục Alexandria, viết về thánh Anthony như sau: “Ngài đơn độc vào sa mạc ẩn trú trong hốc đá. Cứ 6 tháng ngài đi lấy lương thực một lần. Ngài ở đơn độc như vậy trong nhiều năm để tu luyện cách từ bỏ mình.”
Vào thời trung cổ thiền được giới thiệu cho Kitô hữu bởi giáo sĩ Richard (?-1173). Hiện thời, thiền được phổ biến rộng rãi nhờ công của các linh mục dòng Bênêđíc. Hai tổ thiền nổi tiếng là Thomas Merton (1915-1968) và John Main (1926-1982). Cha Merton, nhà thần học lớn của Công Giáo, có công đào sâu ý niệm về thiền. Cha Main có công dậy về luyện thiền. Trước khi đi tu, John Main đã học thiền với một đạo sư Ấn Độ. Sau khi thụ phong linh mục, Main lập ra 2 đại thiền viện một ở Luân Đôn và một ở Gia Nã Đại. Hiện tại vị kế nghiệp cha Main là cha Laurence Freeman (1951-?). Gần đây Kitô hữu Việt hải ngoại cũng biết tới thiền qua sự giới thiệu của cha Chu Công (1918-2004), Tu Viện Trưởng dòng Tra-pít. Cha Chu Công thụ huấn thiền với thiền sư Nhật Bản Joshu Sasaki Roshi. Ngoài ra những đoản văn ghi những vấn đáp thiền được phiên dịch và phổ biết rộng rãi trong giới Công Giáo. Có lẽ để tránh sự nhạy cảm lạc hướng, danh xưng “thiền sư” hay “guru” được dịch là “minh sư” cho có tính trung hòa. Sự đón nhận thiền của các linh mục đã đánh tan mối dè dặt của Kitô hữu về một kỹ thuật tĩnh tâm rất sống động.
 
Khái Niệm Thiền
Bất cứ đời sống tâm linh nào cũng phải đi đến giai đoạn tĩnh tâm thiền định. Đó là nhu cầu tâm hồn hòa nhập vào Đại Ngã. Cha Shannon gọi là trở về sống trong vườn địa đàng, nơi ta không còn cái tiểu ngã là gốc phát sinh những phân chia nhị nguyên giả tạo. Thiền không phải là một hệ thống tư tưởng, hay cảm giác, hoặc một nhận thức tâm lý… Vì vậy ta đừng rơi vào cạm bẫy tìm hiểu thiền qua những giảng giải đầy chữ nghĩa. Thiền là một chứng nghiệm sống không thể giảng giải. Khi ta bị đau vì đứt tay. “Đau” là một thực tại sống, không phải là khái niệm. Nếu phân tích “đau là gì?”, ta phải đóng khung nó vào một khái niệm. Đau trở thành một khách thể để suy tư. Nhưng ta không thể kinh nghiệm đau qua suy tư giảng giải. Sự thật đau là đau. Ta và đau là một. Chủ và khách không có. Trong thiền có câu “Dù nói mãi về đồ ăn cũng không làm ta no bụng”.
Tuy nhiên người ta thường không thể chấp nhận một điều gì đó mà không có tối thiểu một vài khái niệm về nó. Vì vậy người ta đành phải có luận bàn về thiền. Triết gia Descartes nói một câu thâm sâu: “Tôi suy tưởng, vì vậy tôi hiện hữu.” Câu này rất đúng với trí thức, nhưng đối với thiền nó lại hoàn toàn sai. Trong thiền, ta càng suy nghĩ bao nhiêu, ta càng xa chân thân bấy nhiêu. Nếu ta lệ thuộc vào “cái tôi suy tưởng” ta sẽ không thể kinh nghiệm được sự thức tỉnh. Khi ta nói, “tôi hiện hữu” ta bắt buộc phải đẩy Chúa ra ngoài thành một đối tượng. Nhưng bản thể của Chúa là “Ta Là” (I Am) trong trạng thái “đang là” ở mọi nơi và trong hiện tại.
Tại sao trí thức không thể giúp ta ý thức? Ta hãy nhận diện sự diễn tiến của trí thức. Trí thức xác định mỗi vật phải có một vị trí riêng trong không gian và thời gian. Nhờ có khoảng không gian biệt lập này, mà con người có chỗ đứng để nhìn ngắm và suy tưởng về vạn vật. Khi ta nhìn ngắm bông hoa, ta phải đứng ở vị trí của ta và bông hoa phải đứng ở vị trí đối lập với ta. Ta là ta. Bông hoa là bông hoa. Như vậy luôn luôn có hai thế đứng: chủ và khách. Sự biện biệt này là cách đánh lừa rất sâu sắc của trí thức. Nó sẽ dẫn ta tới những lối bí khó gỡ. Trong đời sống tâm linh, để có thể gọi là “ý thức”, ta với đối tượng phải hòa làm một. Muốn “chứng nghiệm” tâm phải thanh tịnh để không có một ý nào của tri thức lọt vào. Nếu ta phải nương vào khái niệm để biết, ta sẽ luẩn quẩn lạc lối trong khái niệm mà không bao giờ có kinh nghiệm về thực tại. Một cách cụ thể khi thiền ta hãy ngồi im lặng coi như thân xác đã chết dù tâm trí vẫn tỉnh. Ta bỏ lại đàng sau tất cả những gì liên quan đến đời sống trần thế, kể cả thân xác chính ta. Có như vậy ta mới tái sinh vào một thế giới cao đẳng hơn. Khi đó ta đạt thức tỉnh sự hiện hữu “đang là” của Thiên Chúa.
Theo Đạo học Đông Phương, tâm là một bản thể tĩnh lặng. Tâm như bầu trời là một khoảng trống mênh mông, không màu sắc, không tiếng động, không quá khứ, không tương lai. Trong khi đó tư tưởng như những đám mây vần vũ, luôn luôn di chuyển, thay hình đổi dạng, và che khuất bầu trời. Người chứa đầy tư tưởng trong trí óc cũng như bầu trời bị mây phủ dầy đặc. Như vậy tâm vốn an tịnh, mọi rắc rối đều bởi trí óc mà ra. Chúng là tiến trình của những chuỗi tư tưởng đến rồi đi. Do đó tư tưởng chỉ là cái nhất thời. Chúng không phải là ta, nhưng là những kẻ bên ngoài tới rồi đi như những vị khách. Ta đón nhận chúng, khách tốt lẫn khách xấu, nhưng không thay đổi vị thế chủ nhà của mình. Có nghĩa là trí biến dịch nhưng ta vẫn tồn tại ở đây với tâm thanh khiết và đơn thuần. Vén mây để nhìn vào bầu trời, đặc ngữ thiền gọi là “quán tâm” (nhìn vào nội tâm). Nhìn ra sự thanh khiết của bầu trời (tâm) gọi là “ngộ” (trực giác biết không qua trí thức). Muốn nhìn vào bên trong tâm, đơn giản chỉ là ngồi im lặng gạt bỏ mọi tạp niệm, tức ngồi thiền. Thiền là đẩy những đám mây mù đặc để bầu trời (tâm) yên tĩnh hiện ra.
Một số nhà tư tưởng Công Giáo giải thích thiền là dạng cầu nguyện tập trung (centering prayer). Cầu nguyện tập trung là đặt tất cả ý thức sự hiện hữu của mình an trú trong thời điểm hiện tại với Chúa. Cha Chu Công nói: “Ta không tìm bình an, không tìm giác ngộ, không tìm gì cho mình… Chúa là tất cả của giờ cầu nguyện.” Cha Merton cho rằng: cầu nguyện không phải chỉ là đứng trước Thiên Chúa để nói một điều gì, nhưng còn là để “kinh nghiệm niềm vui cuộc sống trong sự hiện diện của Ngài”.
Thiền là ngồi “cầu nguyện” nhưng không đọc kinh, không suy ngẫm, không chiêm niệm, và không tư tưởng. Ta không có ý cầu nguyện bất cứ điều gì, dù là cầu nguyện với Thiên Chúa. Ta cũng không hy vọng bất cứ điều gì xảy ra, dù là hy vọng vào Thiên Chúa. Ta đóng lại mọi giác quan, mọi xúc cảm, mọi suy nghĩ, mọi lo lắng, mọi ràng buộc, để chìm vào cõi im lặng của hư vô. Khi Thiên Chúa sinh ra con người, Thiên Chúa thở hơi vào xác phàm của con người. Xác phàm trở thành mạng sống vì hơi thở của Thiên Chúa là Thần Khí ban sự sống. Vậy trong thiền, ta chỉ nên ngồi im lặng mà hít thở. Ta hòa tan hữu thể với Thần Khí ban sự sống. Thiền không phải là việc làm của trí thông minh, nhưng là thời gian của đức tin và lòng khiêm nhường. Tất cả mọi ý thức của ta tập trung hoàn toàn trong ý thức “đang im lặng trong niềm tin”. Các thần học gia gọi phương thế giữ mình trong im lặng là sự an trú trong tình yêu của Thiên Chúa.
Yếu quyết của thiền là giải phóng mọi ràng buộc để mình là chính mình. Giải phóng là buông xả mọi xiềng xích. Nếu ta không buông xả, ta vẫn còn vướng mắc trong một khuôn mẫu chật hẹp nào đó. Mọi khuôn mẫu đều bị giới hạn trong vòng kiểm soát của trí óc. Chưa buông xả, ta chưa đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa một cách trọn vẹn. Hãy hủy bỏ mọi tư tưởng. Hãy hoàn toàn tĩnh lặng để tâm hồn chìm sâu vào hư vô, nơi Thiên Chúa hiện diện.
Thiền Kitô
Nói cụ thể thiền Kitô chính là dạng thiền của Đông Phương phối hợp với lối chiêm niệm của các ẩn sĩ Kitô giáo trong thế kỷ III. Linh hồn Kitô hữu phải gặp Chúa của mình. Nhưng “Ai là người sẽ đứng trước mặt Chúa. Ấy là người tay không nhúng tội và trái tim trong sạch” (TV 24:3-4). Thiền là cách giữ tâm thanh tịnh và trong sạch. Chính Chúa đã phán: “Hãy im lặng để biết Ta là Thiên Chúa” (TV 46:10). Thiền là chiêm niệm trong im lặng, là cách cầu nguyện với kinh vô thanh. Merton đưa ra khái niệm về thiền như sau. Vì Thiên Chúa là ánh sáng quá chói chang khiến trí óc và mắt con người chỉ thấy tối tăm. Vì vậy để gặp Người ta phải đi vào bóng tối. Vì Thiên Chúa không thể hiểu qua âm thanh, nên để gặp Người ta phải đi vào cõi im lặng. Vì Thiên Chúa không thể mường tượng trong trí óc, nên muốn gặp Người chúng ta phải đi vào cõi trống không. Tuy nhiên ta vẫn thức tỉnh để trực giác “biết” rằng ta đang hòa vào Thiên Chúa trong hiện tại vĩnh hằng. Đó là bí quyết thiền.
Yếu tính của tĩnh lặng là gì? Tĩnh lặng nằm bên ngoài thế giới vật lý và những định luật của vũ trụ. Nó hoàn toàn chỉ là sự trống vắng rất đơn sơ giản dị. Giản dị đến mức không có gì để nói. Thiền là sống với tín lý “tinh thần nghèo khó” vì khi đó chúng ta không bám víu vào bất cứ giá trị nào của trần thế. Chúng ta thoát khỏi mọi hình thức vị kỷ. Trong tĩnh lặng, lời nói mất hiệu lực, ý niệm không còn ý nghĩa. Ta không còn sợ hãi. Ta không còn khả năng “động”. Ta hoàn toàn an tĩnh. Trong trạng thái tuyệt đối tĩnh lặng vượt khỏi biên giới ngôn ngữ, tư tưởng, và ý niệm, ta hoàn toàn khuất phục Thánh Linh. Ta lãnh nhận tình yêu của Thiên Chúa trong sự phó mặc. Rồi “bản thể đích thực” của ta sẽ tự sống dậy. Ta sẽ thấy bản thể thật của mình cũng là bản thể của Thiên Chúa. Lúc ấy tâm linh ta sống trong sự hiện hữu vĩnh hằng của Thiên Chúa. Đó chính là sự cầu nguyện tuyệt hảo vì khi đó ta ở trong Chúa và Chúa ở trong ta. Ta thức tỉnh để kinh nghiệm sự hiện hữu của Thiên Chúa và ta hòa nhập trong Người.
Chủ yếu của thiền là chứng nghiệm cá nhân. Tuy nhiên khi thiền ta đừng mong muốn hay cầu nguyện điều gì. Quyền lực của thiền không phải ở lý luận trí thức nhưng ở sự hoàn toàn qui thuận Thiên Chúa. Thomas Merton nhắn nhủ ta rằng: Không phải chúng ta là người lựa chọn sự thức tỉnh cho mình, nhưng chính Thiên Chúa là Đấng lựa chọn đánh thức chúng ta.”

Kỹ Thuật Thiền



Ngồi Thiền

Như trên đã nói thiền có rất nhiều dạng, nên không thể lấy một dạng nào làm tiêu chuẩn mẫu. Ở đây, để có thể đàm luận một cách cụ thể, tôi xin mượn phép thiền của cha John Main[1]. Bí quyết của thiền là ngồi im lặng, nhưng người ta nghiệm ra, không dễ gì mà giữ im lặng trong trạng thái hoàn toàn có ý thức. Trí óc con người rất giao động. Nó luôn luôn tuôn ra những hình ảnh và tư tưởng lộn xộn. Đàng khác nó cũng rất bén nhạy với tư tưởng và hình ảnh quyến dụ từ bên ngoài. Nó như chiếc lông chim nhẹ, chỉ cần một làn gió thoảng đủ khiến nó bay đi. Vì vậy, cái cốt yếu phải biết trong thiền là kỹ thuật giữ thinh lặng. Các tổ phụ Kitô thiền dậy rằng để giữ thinh lặng, chúng ta phải ngồi giữ lưng thẳng, hơi thở điều hòa, mắt nhắm lim dim, miệng tụng mantra (một câu kinh ngắn), rồi chìm vào hư vô. Cần nói rõ mantra không phải là lời cầu nguyện. Nó chỉ là câu niệm âm thanh để giúp trí óc không chạy vẩn vơ. John Main đã dùng nhóm từ “maranathan” làm câu niệm cho phép thiền của ngài. Sau một thời gian công phu luyên tập, ta đạt tới trang thái hoàn toàn tĩnh lặng, đặc ngữ thiền gọi là nhập định, khi ấy ta không cần tới mantra nữa. Tuy nhiên không ai biết khi nào ta đạt trình độ này. Nó tự nhiên đến mà không báo trước. Nếu ta mong nó đến, ta đã đi sai đường. Tất cả những gì ta cần phải làm là “Ngồi xuống, giữ thẳng lưng, tụng mantra.” Ngoài ra không kỳ vọng bất cứ một điều gì.
Thêm nữa không phải lúc nào thiền cũng được. Thiền chỉ nên có mỗi ngày hai lần, mỗi lần khoảng từ 20 đến 30 phút vào những giờ giấc nhất định. Vì vấn đề kỹ thuật được nhấn mạnh, nên người ta có khuynh hướng tục hóa nghi thức này. Cuối cùng nó có thể trở thành một loại công phu “Yoga” luyện tập thể chất. Điều này không phải là sai, vì lối “ngồi im lặng” hóa giải được sự căng thẳng của thể xác và làm thư giãn tinh thần. Nhưng nếu ta không ý thức đó là dạng cầu nguyện, nó chẳng mang lại một tiến bộ tâm linh nào cho ta cả.
Vào mỗi buổi sáng và buổi tối, ta hãy tìm một chỗ thanh vắng để thiền. Ta hãy ngồi với tư thế thanh thản, điều quan trọng là phải giữ sống lưng thẳng đứng. Có rất nhiều cách ngồi. Ngồi theo thế tòa sen (kiết già) hai bàn chân bắt chéo đạt lên đùi. Ngồi theo thế bán kiết già, xếp chân nhưng không bắt chéo đặt trên đùi. Ngồi trên ghế. Nếu ngồi trên ghế, tốt hơn đừng dựa lưng vào thành ghế. Tóm lại ngồi cách nào cũng được miễn ta thấy thoải mái. Thế ngồi thẳng lưng đứng tạo sinh lực giúp ta vượt giới hạn của thân và trí để có trạng thái buông xả.
Trước khi thiền ta nên để tâm hồn hoàn toàn buông xả. Kế đó ta tụng câu “Ma-ra-na-tha”. Bốn âm thanh này phát ra đều đặn trong suốt buổi thiền. Ma-ra-na-tha có nghĩa là “lạy Chúa xin hãy đến”. Đây là tiếng Aramiac, ngôn ngữ của Đức Giêsu dùng khi xưa. Cha Main luôn luôn nhắc nhở “Hãy chỉ tụng lời, đừng nghỉ đến nghĩa”. Tụng đơn sơ và thanh khiết như con trẻ.
John main tìm ra phương pháp này qua phương pháp tĩnh tâm của thánh John Cassian (360-435) ở thế kỷ IV. Thánh Cassian cùng bạn là thánh Germanus đi vào sa mạc Ai Cập học đạo với tổ phụ Isaac. Ngài Isaac tiết lộ rằng tất cả những gì ông biết đếu bắt nguồn từ tụng một câu kinh ngắn. Sau đó Isaac dạy cho Cassian lời nguyện với bí quyết: khi tụng kinh hãy buông mình theo hướng Chúa dẫn mình đi. Đừng trói buộc Chúa vào bất cứ một tư tưởng nào.
John Main tâm sự, “Câu mantra của tôi là maranatha. Câu này là lời kinh tối cổ của giáo hội Kitô. Thánh Phaolô kết thư gửi cho tín hữu Côrintô bằng câu ấy. Thánh Gioan kết thúc sách Khải Huyền cũng bằng câu ấy. Maranatha đầy đủ ý nghĩa lại không phải là ngôn ngữ của chúng ta. Vì vậy khi đọc, câu này không gợi ra một hình ảnh hay một tư tưởng nào khuyết khích trí ta suy nghĩ. Tất cả chỉ có âm thanh đều đặn theo nhịp điệu hòa hợp với hơi thở.”
Mục đích của thiền là giúp chúng ta cởi bỏ những gì thuộc thế giới ảo ảnh, vén tấm màn che dấu để năng lực sống của Thiên Chúa truyền vào chúng ta. Hữu thể của ta đã nối kết với Thượng Đế ở một nơi ngoài tầm của ngôn ngữ, của lý trí và của những thực thể. Thiền không phải là làm một việc gì. Không phải là tu luyện để trở thành một nhân vật khác. Thiền là trở thành chính mình: sinh ra bởi Chúa Cha, được cứu chuộc bởi Chúa Giêsu, là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Sau một thời gian “tu thân” chúng ta mới hiểu ích lợi của thiền. Như kho tàng dấu trong ruộng, bản tính đạo đức ẩn khuất từ từ khai triển và mở ra. Chẳng hạn ta tự nhiên có lòng bác ái, điều mà ta đã cố gắng lập đức từ lâu mà không sao thể hiện được. Sự diễn biến xảy ra rất tự nhiên trong khi ta không biết tại sao. Chính Thiên Chúa đã thanh lọc tâm hồn ta trong những lần ta đến an trú trong Người. Vào mỗi buổi sáng, sau khi chìm trong thiền định, sự thanh tịnh tồn tại bao phủ tâm hồn ta suốt cả ngày. Mọi việc tầm thường ta làm trong ngày đều có ý nghĩa hơn, vì ta có cảm nhận Thiên Chúa đứng đàng sau mọi việc.

 
Đỗ Trân Duy
___________
 
Tài liệu tham khảo
John Main, O.S.B. 1999. “Christian Meditation: the Gethsemani Talks”. Medio Media, Tucson, Arizona.
Joseph Chu Công, O.C.S.O. 1999. “The Contemplative Experience: Erotic Love and Spiritual Union”. The Crossroad Publishing Company, New York, New York.
Thomas Merton, O.S.B. 1960. “Spiritual Direction and Meditation”. The Order of St. Benedict, Inc. Collegeville, Minnesota.
Rating: 0.0/5 (0 votes cast)
  1. Để biết đầy đủ hơn về thiền Kitô xin vào website Medio Media Christian Meditation (WWW.mediomedia.com) và The World Community for Christian Meditation (www.wccm.org).

Thứ Tư, 16 tháng 7, 2014

Thiền và phương pháp định Tâm - Hồng Quang

Chữ THIỀN

(PGVN) 

Nếu Quý bạn đọc đã đọc cuốn “Thiền và những lợi ích thiết thực", hẳn độc giả đã biết, việc thiền tập ngoài mục đính chính là Giác Ngộ giải thoát, còn có một lợi ích thiết thực khác là cải tiến sức khỏe.

Trong bài này, tôi muốn chia sẻ với quý vị “Thiền sức khỏe”. Lý do là, vì nếu nói đến khái niệm Giác ngộ và Giải thoát thì đối với nhận thức của đa số quần chúng vẫn còn quá cao. Con người, trước mắt vẫn cần phải đối diện với sự thiếu ăn thiếu mặc và bệnh tật, đặc biệt là các căn bệnh trầm cảm (depression).

 Ảnh minh họa

Tại Âu châu có đến 40% dân chúng bị bệnh nầy, ở Việt Nam không kém (Báo Tuổi trẻ, 30.6.2013). Theo bác sĩ Herbert Benson, có từ 60-90% bệnh do căng thẳng (stress)* mà ra. Qua nghiên cứu, ông thấy, Thiền tập có khả năng làm giảm căng thẳng, cho nên nó có thể được áp dụng trong việc điều trị bệnh tật.
Nhưng để tiến trình điều trị bằng thiền được tốt đẹp và thành công, thì yếu tố cần và không thể thiếu là: người hành Thiền phải định được Tâm. Nếu tâm không định thì không có kết quả. Đó là trọng tâm của bài nầy.
Trước lúc bàn về PHÁP ĐỊNH TÂM, chúng ta nên biết khái lược vài loại thiền đang hiện hành trong và ngoài đất nước Việt Nam, để chọn cho mình một pháp môn Thiền tốt đẹp để thực tập mà không bị tẩu hỏa nhập ma.
1. Thiền khai mở luân xa: Hành giả được hướng dẫn, tưởng tượng một làn sóng chạy từ rún lên đầu, vòng ra sau lưng rồi lại về rún, lên đầu. Lúc được hỏi tại sao Thiền chữa được bệnh? Người hướng dẫn trả lời, người ngồi thiền lấy năng lượng của vũ trụ để chữa bệnh. Đây là câu trả lời theo ý nghĩ riêng, không có cơ sở khoa học. Vì lấy năng lượng như thế nào, lấy nhiều ít, có chứng cớ khoa học không?
2. Thiền xuất hồn: Mở những điểm huyệt, phóng linh hồn đi học đạo với những bậc thầy mà mình chưa hề biết chưa hề gặp. Nên dễ tin những điều huyễn hoặc. Người ấy dạy gì tin theo cái đó. Rất nguy hiểm. 
3. Thiền luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần: Người tu tưởng tượng đem tinh lên đầu để luyện thành thần khí. Đây là thiền của những người tu tiên. 
4. Thiền nhân điện: Nhiều năm trước, một số người Việt Nam theo Thiền nhân điệnvì được đồn đãi những chuyện rất “hấp dẫn” như chữa lành tất cả các loại bệnh, trồng cây không cần tưới nước nó cũng mọc tươi tốt. Đàn ông có thể mang thai. Ngay cả có thể ngăn chặn không cho động đất xẩy ra v.v.. Nhưng dưới ánh sáng khoa học, những người có óc đầy tưởng tượng đến độ hoang đường “tự ngôn chứng thánh” như thế, sẽ không còn được ai tin tưởng nữa. (Theo An Ninh Thủ Đô, 22.10.2011).
5. Thiền Yoga: Thiền Yoga chủ đích làm cho thân thể khỏe mạnh. Hiện có nhiều trung tâm dạy Yoga tại Việt Nam. Mỗi ngày tập 2 giờ, tuần 5 ngày. Phí tổn khoảng 500 ngàn đồng mỗi tháng, tùy theo địa phương. 
Hiện nay tại Việt Nam, phỏng đoán, có hằng chục trung tâm thiền đủ loại như trên. Ngoại trừ Thiền Yoga, có những mối liên hệ với Thiền của Phật giáo, bốn loại thiền còn lại như đã đề cập trên, không phải là Thiền Phật giáo mang tính khoa học.

Cho nên, người thực tập thiền, nếu không chọn một loại Thiền được  phát xuất từ đấng Giác ngộ hoặc được soi rọi qua ánh sáng khoa học thì, đôi lúc sẽ gặp những điều hết sức bất cập. (xem 10 thông tin ở cuối bài)*. 
Mặt khác, Thiền Phật giáo cũng có nhiều loại khác biệt, giữa Nguyên Thuỷ và Đại chúng bộ, và nhiều trường phái khác nhau trong các quốc độ và các Tổ sư thiền.
Nguyên thuỷ có:
- Thiền Tứ niệm xứ (thân, thọ, tâm, pháp). Bạn đọc nào muốn đọc bản tiếng Anh xin xem thêm bản dịch của Thiền sư Nhất Hạnh Sutra of the Four Establishments of Mindfulness hay bản Việt Dịch của HT.Thiện Siêu, và tập sách nhỏ hướng dẫn thực tập Thiền Tứ niệm xứ của Thầy Trí Siêu (Mỹ).
- Thiền Minh Sát tuệ (Vipassana, Pali, dùng trí tuệ để thấy rõ vạn pháp. Bắt đầu bằng pháp quán hơi thở để định tâm).
Đại  Chúng bộ có các loại thiền như: 
Zen Meditation: truyền bá rộng rãi qua Tây phương từ Nhật, nhất là nhờ Đại Sư Suzuki qua cuốn Thiền Luận, phần lớn nghiêng về triết lý, ít mô tả phương pháp hành trì (!). Hai phái Thiền Nhật Bổn trong « 5 phái Thiền Đại Thừa được nhắc nhiều nhất là Lâm Tế (LinChi & Rinzai) và Tào Động (Ts’ao-tung, TQ & Soto, Nhật). Các hành giả Tào Động thường thực tập bằng các Diện Bích (nhìn vào Tường). Theo truyền thuyết, Bồ Đề Đạt Ma ‘Cửu niên diện bích’ và  tác phẩm Bích Nham Lục. Phái Lâm Tế thì « cực đoan » hơn. Các Thiền Sư nhiều khi dùng gậy dùng hèo đệ tử có thể loạn tâm. Cách hành thiền này trong lịch sử cũng được gọi là Thiền Công Án (Koan, Kung An C). 
- Lục diệu pháp môn: sổ, tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh. 
- Không, Giả, Trung: vạn pháp không thực có nên gọi là không, tạm bợ gọi là giả. Người thấy được Không và Giả hòa hợp với nhau gọi là Trung.
- Như Lai Thiền, Tổ Sư Thiền. Phần lớn chỉ ghi lại trong các Lục như Bích Nham Lục, Vô Môn Quan nhưng không có phương pháp nào được ghi chép lại để hành giả thực tập.
Danh sách các loại hình thiền tập còn dài. Tôi chỉ liệt kê vài loại như thế, để quý độc giả biết tên của chúng trong cả rừng Thiền (Thiền Lâm).
Các loại hình thiền của Phật Giáo, tôi tâm đắc để chia sẻ với quý vị, là Thiền Sức Khỏe (meditation for health), chứ không phải Thiền Giác Ngộ (meditation for enlightenment). 
Nhiều thập niên qua, y giới và khoa học gia Phương tây tìm thấy Thiền Phật giáo có khả năng chữa trị bệnh tật, như quý độc giả đã thấy hai bài trong tập sách mỏng “Thiền và những lợi ích thiết thực”. Muốn có kết quả chữa trị bệnh tật, người hành thiền phải định được tâm.
PHÁP ĐỊNH TÂM (One Pointed Meditation- Shamatha, Pali)
Các giai đoạn:
1. Chuẩn bị: Nên ngồi trên gối mềm để chân khỏi tê và dễ ngồi thế bán già (gác một chân lên bắp vế chân kia), hoặc kiết già (hai chân gác tréo lên nhau). Có thể ngồi trên ghế hay trên bậc cấp. Xem 5 cách ngồi thiền, trang 38, 39 & 40 T&NLITT, sđd).
2. Ngồi thẳng lưng, lưỡi để chạm nhẹ vào hàm răng trên, bên trong. Tay phải chồng lên tay trái, để gần rún hoặc hai tay bắt ấn Tam muội  và để trên đầu gối. Mắt nhắm nhẹ nhàng (không quá chặt).
3. Tập trung chú ý: Thiền là sự tập trung «tâm» vào một điểm mà không suy nghĩ về một vấn đề nào khác. Nếu thiền giả không tập trung được ý tưởng, nghĩa là không định được tâm thì không có kết quả. Có mấy phương cách để định tâm: Vui lòng xem trang 34 và 35 sách đã dẫn. 
Cách định tâm dễ nhất và có kết quả nhất là Thiền thở (the Breathing Meditation). Thiền gia gọi là «Quán sổ tức» (Counting the Breath). Thiền Thở là tập trung chú ý hơi thở ra vào. Bắt đầu hít vào thật sâu (bằng mũi) để buồng phổi căng lên. Kế tiếp, thở ra (bằng miệng) cho hết lượng không khí trong phổi. Hít vào, thở ra như vậy ba lần. Sau đó, hít vào, thở ra (bằng mũi) bình thường, nhưng tâm trí phải dỏi theo sự hít vào và thở ra mà không suy nghĩ một vấn đề nào khác, rồi bắt đầu đếm 1. Hít vào, thở ra, đếm 2. Hít vào thở ra, đếm 3. Cứ hít thở như thế và tiếp tục đếm 4, 5. Rồi đếm trở lại 1, 2, 3, 4, 5. Có thể đếm đến 10, rồi trở về 1 [Chú ý, không nên đếm quá 10 và ít hơn 5, vì khó tập trung tâm]. 
Tại sao phải dỏi theo hơi thở? Vì, tâm và thân của chúng ta không hợp nhất với nhau. Tâm thường dong ruổi lang thang với những thứ không ích lợi như tham lam, sân hận, lo âu, sợ hải, buồn phiền…Tâm cảnh nầy sẽ đưa con người đến tình trạng căng thẳng. Mà căng thẳng là một trong những nguyên nhân chính sinh ra bệnh tật. [ Vui lòng đọc phần trả lời câu hỏi số 3, cuối bài nầy, và xem hình mô tả phản ứng của căng thẳng  tr. 45 & 56, sđd ]. 


Lúc dỏi theo sự hít vào và thở ra, tâm ta sẽ lắng dịu, an lạc, vui vẻ. Các chất hormones không có cơ hội sinh ra, và bệnh tật được thuyên giảm. Thiền thở (quán sổ tức) là một trong những cách dễ nhất để định tâm mà Đức Phật đã chỉ dạy trong kinh “Quán Niệm Hơi Thở” [Anapanasati sutta]. Hầu hết chư Tôn đức Tăng Ni khuyên theo pháp Quán Sổ Tức. BS Andrew Weil  (Đại học Arizona, Mỹ), một trong những người đã thí nghiệm và cũng đề nghị sử dụng pháp Thiền Thở để định tâm.


Sau khi tâm được an định, hành giả không cần đếm mà tập trung tâm theo hơi thở vào hơi thở ra (gọi là tùy tức, (Following the Breath). Hoặc tập trung tâm vào một điểm giữa hai chân mày, trên chóp mũi, trên đỉnh đầu hoặc một hình tượng, một màu sắc (như trắng, đen) v.v.. Nếu thiền đúng cách và định được tâm thì chúng ta sẽ nhận biết nhịp đập của tim giảm xuống, và cảm nhận được sự an lạc ngay lập tức. Nếu định được tâm liên tục trên 25 phút, chúng ta sẽ cảm nhận một làn “sóng” chạy nhẹ nhàng trong cơ thể. Và con người cảm thấy rất an lạc hạnh phúc ngay trong giờ phút ngồi thiền.
Những người tu Tịnh độ (Thiền Tịnh độ) phần lớn truyền qua Tây phương từ Nhật Tào Động (Jodo-shin) hay theo các đạo tràng Pháp Hoa, có thể định tâm bằng cách niệm danh hiệu Phật, niệm Nam mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, hay tụng kinh Pháp Hoa. Nếu hành giả định được tâm thì Thiền, Tịnh, Mật và Pháp Hoa Tông…đều có khả năng chữa trị bệnh tật.
Cụ thể, người tu Tịnh Độ, hít vào không niệm, thở ra niệm “A Di Đà Phật”. Đạo tràng Pháp Hoa: Hít vào không niệm, thở ra niệm “Diệu Pháp Liên Hoa” hoặc niệm danh hiệu Phật.
Đức Phật giáng trần để cứu độ cho tất cả chúng sanh, chứ không phải chỉ dành riêng cho người phật tử. Do đó tín đồ các tôn giáo khác cũng có thể ngồi thiền để chữa bệnh, vì Thiền không mang tính tôn giáo. Và dĩ nhiên là không bao giờ có trường hợp bị cải đạo. Người Thiên Chúa Giáo lần chuổi Mân côi, là một trong các cách để định tâm.  Khoảng 200 cô giáo (hai lớp) dự buổi thuyết trình Thiền sức khỏe (do Hồng Quang hướng dẫn), Khách sạn Sài Gòn Đông Hà, Quảng Trị,1.6.2013.
Một ngày có 24 giờ mà hành giả chỉ ngồi thiền được khoảng 1 giờ, 23 giờ còn lại thì như thế nào? Đáp: An vui thì khỏe mạnh, ưu phiền sẽ ốm đau. Có lẻ đây là câu trả lời ngắn mà đúng nhất. Lúc nào có niềm an lạc, tâm không tham sân si…thì đó là thiền, là sức khỏe.
4. Xả Thiền: Hai bàn tay xoa vào nhau khoảng 4, 5 lần. Dùng ngón tay trỏ và ngón tay giữa vuốt nhẹ xung quanh vành mắt. Sau đó, hai bàn tay xoa nhẹ lên mặt. Kế, xoa lại hai bàn tay, rồi thoa lên lưng (quần), lên chân để chống đau lưng và tê chân, nếu có.
Mỗi ngày ngồi thiền hai lần, mỗi lần khoảng 20 phút, chúng ta sẽ tránh được nhiều bệnh tật.

MỘT SỐ CÂU HỎI – ĐÁP 
(Giúp thêm pháp định tâm)
1.Hỏi: Hiện nay, Phật giáo Việt Nam chúng ta đang khôi phục lại pháp môn Tịnh độ, cư sĩ quảng diễn Thiền sức khỏe, phải chăng có sự chồng chéo?
Đáp: Không, Thiền-Tịnh song tu (Pure land Meditation) Nếu quý độc giả đọc kỹ các bài viết của tôi về Thiền, hẳn đã thấy: y giới và khoa học gia Tây phương sử dùng Thiền Phật Giáo một cách rộng rãi trong việc nghiên cứu và trị liệu bệnh tật, mà ít nói đến việc sử dụng các pháp môn khác. 
Vì sao? Vì người Phương tây đã sống trong nền văn hóa Kito, một nền văn hóa “xin cho” với đức tin mà không được phép nghi ngờ và phán xét. Cho nên, họ không có cơ hội thẩm tra lại những gì mà đức tin trao truyền một chiều. Chán sự áp đặt không được kiểm chứng bằng lý trí, nên họ thích những gì mang tính khoa học và khả năng “tự mình thắp đuốc lên mà đi”. Chính vì thế, họ đến với Thiền. Ngay cả bản thân tôi cũng vậy, không thoát ra ngoài ảnh hưởng ấy lúc tìm hiểu các phương pháp trị liệu thân và tâm. Dùng trí tuệ và phương pháp khoa học là chìa khoá của việc học và hỏi.
Nếu để ý thêm, độc giả sẽ thấy, niệm Phật, lạy hồng danh, tụng kinh cũng có kết quả cho việc trị bệnh, nhưng không cao và không nhanh như Thiền. Trong tác phẩm nhỏ [T & NLITT, nêu trên, tr.24 ], tôi có tường thuật lại thí nghiệm của BS. Phan Thị Phi Phi, GS trường y Hà Nội để làm rõ thêm những điều vừa nêu. Theo thí nghiệm này, các bệnh nhân sida, được khuyến khích tụng kinh 2 lần / một ngày tại nhà và 2 lần / mỗi tháng vào ngày rằm và mồng 1 tại chùa. Kết quả thu nhận được, rất phấn khởi: chỉ số bạch huyết cầu tăng lên, trung bình 4 điểm cho mỗi người. Bệnh được chận đứng, không có diễn tiến xấu hơn, không dẫn đến tình trạng nguy hiểm tính mạng.
Thêm nữa, nếu để ý hình ảnh các đạo tràng tu Tịnh độ trên mạng, chúng ta thấy, hầu hết là quý bà lớn tuổi, cụ ông ít, còn thanh thiếu niên và các bạn trẻ cũng rất ít.

Lý do vì đâu? Khi chúng ta thuyết phục người trẻ đến với các đạo tràng Tịnh độ thì họ sẽ cho rằng mình chưa cần cầu vãng sanh, vì tuổi mới đôi mươi. Đời vẫn còn rất nhiều điều tốt đẹp, đáng để hưởng thụ kia mà! Cho nên, ở một góc độ nào đó, giới trẻ sẽ nghĩ sai lầm rằng: Phải chăng, đạo Phật là “đạo của người chết”? 
Trên mạng PTVN, vài năm trước, tôi có đọc bài viết của tác giả Nghiêm Minh Kiên, anh đã đề cập rất đúng về vấn nạn nầy. Do vậy tôi thiết nghĩ, các lớp thiền tập vốn dĩ rất phù hợp cho tuổi trẻ. Vì tuổi trẻ thích cái mới, thực tế, hữu dụng và mang tính khoa học. Thiền đáp ứng được tất cả các nhu cầu ấy.             
                                        
Quý phật tử lớn tuổi thì có vẻ phù hợp với pháp môn Pháp Hoa và Tịnh độ hơn, phương pháp hành trì cũng dễ hơn. Cho nên để khế hợp căn cơ của đa số phật tử, thì Thiền - Tịnh song tu, có lẽ là pháp tu tốt nhất cho hàng phật tử hiện nay?
2. Hỏi: Tôi có đọc tác phẩm “Thiền và những lợi ích thiết thực” của cư sĩ, nhưng vẫn thắc mắc, phải chăng có điều gì mầu nhiệm bí ẩn về Thiền. Chỉ ngồi theo dõi hơi thở ngày hai lần, mỗi lần khoảng 20 phút mà trị được bệnh sao? Xin cư sĩ lý giải?
Đáp: Bạn nên đọc lại tác phẩm ấy để thấy:
Nếu Thiền mà định được tâm, thì bạch huyết cầu gia tăng, hệ miễn nhiễm mạnh hơn. Cho nên ta nói Thiền có khả năng chữa trị bệnh tật là vậy. Trong sách (tr. 21) có nêu thí nghiệm của khoa học gia Jon Kabat-Zinn về bệnh siđa để chứng minh điều này, Trang. 57 (đọc thêm chú thích (8) tr. 66), BS Herbert Benson,sau những tháng năm thí nghiệm, ông tìm thấy từ 60-90% bệnh tật do căng thẳng (stress) mà ra**. Trong khi đó, Thiền có khả năng làm giảm căng thẳng, điều đó cho thấy Thiền có khả năng trị bệnh. Như thế, Thiền trị bệnh là một phương thức khoa học, không có gì là bí ẩn.
3. Hỏi: Tại sao căng thẳng (stress) phát sinh bệnh tật?
 Đáp: Lúc bị căng thẳng như giận hờn, sợ hãi, lo âu…não bộ báo động cho nang thượng thận (Adrenal glands) để tiết ra chất epinephrine. Tế bào thần kinh vùng dưới đồi não (Hypothalamus) tiết ra chất Nor-epinephrine. Hai loại hormones nầy (epinephrine và Nor-epinephrine) là những chất hóa học rất mạnh, có nhiệm vụ làm cho các giác quan nhạy bén hơn, các cơ bắp (muscles) rắn chắc hơn, nhưng sự tiêu hóa thức ăn bị giảm. Tim đập nhanh, phổi hô hấp mạnh, để đưa oxy tới các tế bào. Đường trong máu gia tăng để cung cấp nhiệt lượng cần thiết. Như thế, cơ thể chúng ta được xem như sẵn sàng ứng chiến (fight) mà không thể chạy trốn (flight) [xem hình minh họa tr. 45 & 56, sđd]. 


Nếu sự căng thẳng không còn nữa thì cơ thể trở lại bình thường. Nhưng trong xã hội máy móc ngày nay, con người thường xuyên bị căng thẳng, cái cũ chưa hết, cái mới đã sinh. Nên trong cơ thể con người luôn ứ đầy những chất hormones stress, tích tụ từ ngày nầy qua tháng nọ, làm cho:
- Hệ tim mạch thương tổn, bệnh tim phát sinh, cao huyết áp, đột quỵ. Ăn khó tiêu, bị tiểu đường, bệnh gan v.v..
- Hệ miễn nhiễm yếu, dễ bị vi trùng và vi khuẩn tấn công cơ thể, xương loãng vì thiếu calcium, eo và mông gia tăng mở, v.v..
Trong khi đó, Thiền có khả năng làm giảm căng thẳng, nên Thiền có thể chữa trị được bệnh tật từ gốc là thế. Biết vậy, ngoài việc Thiền mỗi ngày hai lần như đã đề cập, chúng ta luôn luôn giữ tâm hồn an lạc bằng cách quán hơi thở trong mọi nơi, mọi thời (đi đứng nằm ngồi) để giữ tâm trong thân, không cho nó lang bang dong ruổi vào những nơi bất thiện (tham sân si). Đây gọi là Thiền hành động (meditation in action) hoặc Thiền Tĩnh Thức (Mindfulness Meditation). Cũng nên biết thêm rằng, lúc tâm có sự an lạc, hỷ xả thì chất Nitric oxide, chất endorphins và chất enkelytin trong cơ thể tiết ra làm cho con người mạnh khỏe hơn, hệ miễn nhiễm gia tăng, chống lại bệnh tật [Marco Visscher, May 2006 Issue, Wikipedia] và trong bài “Cầu an có an không?” [ tr.71, sđd]. Rõ ràng chưa? Thính chúng hoan hỷ, vỗ tay.
4. Hỏi: Cư sĩ viết “Thiền có khả năng chữa trị bệnh tật, làm cho con người đẹp hơn, thông minh hơn, sống lâu hơn, sống có hạnh phúc hơn”. Cư sĩ có thể trình bày rõ hơn chăng?
Đáp: Tất cả những điều mà bạn vừa nhắc đến, tôi đã trình bày có tài liệu và hình ảnh cụ thể trong sách vừa đề cập. Mong bạn đọc kỹ lại. Nhân đây, tôi chỉ trình bày lại vấn đề Thiền có khả năng làm cho con người sống có hạnh phúc hơn. Bạn có thể xem lại tr. 46 (và hai chú thích 4 & 5 sđd) sẽ rõ, khoa học gia và y giới tìm thấy mỗi vùng của não bộ, có một chức năng khác nhau. Vùng não bên phải, trước trán, chứa sự đau khổ. Vùng trái tương ứng, chứa sự an lạc. Lúc hành thiền, vùng trán bên trái gia tăng hoạt động làm cho con người cảm thấy có hạnh phúc an lạc hơn. Lúc sân hận, si mê, thì vùng bên phải phát triển, đem đến đau khổ. Đây là một bằng chứng khoa học, không có gì bí mật. Hiểu được chức năng của hai vùng não bộ vừa đề cập, ngoài giờ Thiền, chúng ta đi, đứng, nằm, ngồi (hành trụ tọa ngọa) luôn luôn chánh niệm. Đó cũng là cách định tâm ngoài lúc ngồi thiền. Tụng kinh, Niệm Phật, niệm Chú, lần chuổi cho tâm an lạc cũng là Thiền.
5. Hỏi: Lúc cư sĩ phân biệt Thiền giác ngộ và Thiền sức khỏe. Câu hỏi là, người tập Thiền giác ngộ có đem lại sức khỏe không? Và Thiền sức khỏe có đạt đến giác ngộ?
Đáp: Tôi nói Thiền giác ngộ và Thiền sức khỏe là một cách nói nhằm phân biệt hai “mục đích” khác nhau của người hành thiền. Xưa nay, tu thiền, người ta có khuynh hướng nghĩ tu để giác ngộ, giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Nhưng ít ai nghĩ Thiền còn có công năng chữa trị bệnh tật cho nhân loại.  Nhiều thiền gia trong Sơn môn biết Thiền có thể trị bệnh, nhưng không dám cổ động công khai vì chưa có bằng chứng mang tính khoa học. 

Ngày nay, khoa học tiến bộ, y giới sử dụng các phương tiện như máy chụp cọng hưởng từ (fMRI), máy chụp các điện não đồ, để biết sự vận hành và chức năng của não bộ. 

Cùng lúc các thí nghiệm lâm sàng và đo mức độ an lạc của các vị sư đang thiền định. Họ cho thấy điều mà các phật tử ca tụng rất chính xác, “Phật là vô thượng y vương” (thầy thuốc trên tất cả các vua thầy thuốc của thế gian nầy). Xem thế, người tu thiền với mục đích giác ngộ cũng đem lại sức khỏe cho bản thân. Người tu thiền với mục đích sức khỏe, cũng có thể đạt giác ngộ. Xem hình “Làn sóng não (tr. 61). Chúng ta thấy, lúc tâm bấn loạn (tham, sân, si, lo âu, phiền muộn) quá cở, sóng não (Beta) vận hành từ 14 đến 21 vòng trong 1 giây đồng hồ  . Nếu tâm định đến mức Delta,  làn sóng não vận hành chưa đến 4 vòng trong một giây. Với trạng thái nầy, thiền giả có thể được xem như là đạt đến sơ thiền.
Người tu Tịnh độ, với trạng thái nhất tâm bất loạn, “tâm không tham luyến, ý không điên đảo, như vào thiền định. Phật và Thánh chúng tay nâng kim đài cùng đến tiếp dẫn, trong khoảng một niệm sanh về Cực lạc”. 

Do đó, Thiền, Tịnh và tụng kinh như quý vị trong Đạo Tràng Pháp Hoa mà định được tâm thì chỗ gặp gở không có ranh giới. Quý vị đặt những câu hỏi thiết thực, bổ ích, làm sáng tỏ thêm những điều tôi trình bày trong sách. Rất tri ân tác giả của những câu hỏi. 
6. Hỏi: Nhân đây xin hỏi thính chúng một câu. Trên hệ thống điện tử có đề cập đến một trại tù tại bang Washington, thị trấn Seatle, Mỹ, dạy tù nhân ngồi thiền. Kết quả sau khi mãn tù trở về đời thường, số tù nhân có hành thiền một thời gian, tỉ lệ tái phạm chỉ có 56%. Số không ngồi thiền, có đến 75%, khác biệt gần 20 %. Quý vị biết lý do tại sao? 

Khoảng 800 thính chúng chia sẻ Thiền sức khỏe, Đại tùng lâm, Long Thành 4.2012.
Đáp: Cô Thúy Hằng:
Con người phạm tội, phần lớn tâm hồn thiếu bình thường, hay giận hờn, tham lam, cuồng tín… Lúc hành Thiền họ có được sự an lạc trong tâm, sống đời có hạnh phúc, có hy vọng, có tình thương, nên ít tái phạm pháp hơn những người tâm hồn bấn loạn và sân hận ngút ngàn. Tất cả đều vỗ tay cho câu trả lời chính xác có cơ sở khoa học.
Câu hỏi còn nhiều, các bạn chịu khó đọc vài lần tác phẩm nói trên, sẽ tìm thấy những điều rất thực tế, rất khoa học, rất bổ ích mà y giới đã thí nghiệm và làm chứng cho lời dạy của Phật; “vạn pháp do tâm tạo”. Tâm an vui thì khỏe mạnh, ưu phiền sẽ bị ốm đau. Ngoài ra, chế độ ăn uống và tập thể dục như đi bộ cũng rất cần cho sức khỏe.
Thiền có thể chữa trị bệnh tật. Nhưng điều đó không có nghĩa là Thiền sẽ hoàn toàn thay thế thuốc. Thiền thuốc song hành có lẻ là giải pháp tốt nhất. Nếu cần, quý vị nên tham vấn với các nhà chuyên môn.
Tóm lược, xã hội Việt Nam ngày nay có nhiều trung tâm dạy Thiền chữa bệnh, nhưng không phải Thiền của Phật giáo. Nhiều nơi đem lại kết quả rất tốt cho bệnh nhân. Nhưng cũng có không ít hệ lụy do việc khai mở luân xa* và hướng dẫn Thiền thiếu phương pháp khoa học. Do đó, cẩn thận là điều cần có, không nên theo những điều thiếu sự gạn lọc của lý trí và thiếu chứng cớ khoa học.
Thiền Tịnh, Mật, niệm Phật, tụng kinh Pháp Hoa hoặc lần chuổi hạt nên cần định được tâm mới có kết quả. Pháp định tâm không khó. Kiên trì luyện tập thì việc định tâm sẽ nằm trong tầm tay với.
Kính chúc tất cả thân tâm an lạc.
Hồng Quang
 8.8.2013

Tài liệu tham khảo:
b. Hậu quả của việc tùy tiện khai mở luân xa:http:/www.totha.info/showthread.php?t=322
e. Mở Luân xa cần cẩn trọng ! Nghiên cứu năng lượng học:http:/sucmanhvothuc.com/
g. Nhân điện - bí ẩn hay hoang tưởng? http:/www.anninhthudo.vn/Phong-su/N...ng/420370.antd
h.  Mang thai nhờ truyền nhân điện! http:/Kienthuc.net.vn
i. Truyền nhân điện giúp nam giới sinh con?http:/bee.net.vn/channel/2981/20120...ay-ba-1833708/
k. Gặp người dùng thiền định mở luân xa chữa bệnh cho 6 vạn người, bà Hồ Thị Thu: http:/laodong.com.vn/phong-su/gap-nguoi-dung-thien-dinh-mo-luan-xa-chua-benh-cho-6-van-nguoi/107110.bld%20%5D
l. . Khả năng chữa bệnh thần kỳ của thiền mở luân xa?
** “International Journal of Stress Management” thường đăng tải nhiều cuộc thí nghiệm, của Bác sĩ và chuyên gia, liên hệ giữa căng thẳng (stress) và bệnh tật, nghề nghiệp, tai nạn v.v..để có hướng giải quyết. Qua đó, chúng ta thấy căng thẳng là gốc của những biến cố xấu.
-----------------------------------------------
Chữ Thiền đối với Công giáo

Một nữ tu đang cầu nguyện

Giáo hi Công giáo tri qua nhiu ngàn năm lch s, cách riêng Giáo hi Công giáo Vit Nam hình thành và phát trin trên 500 năm qua ti Vit Nam. Ngoài nhng chương trình nghi l & phng v chính thc quy định tng ngày, tháng, năm, Giáo hi cũng quy định nhng gi kinh phng v, gi kinh chung áp dng trong các cng đoàn dòng tu nam, n, gi kinh sáng&ti thường ngày cho tng gia đình, tng cá nhân mi kitô hu. Nhng hình thc cu nguyn thường được áp dng như gi kinh dành cho cng đoàn đông người hoc gi kinh dành cho tng người, theo tiếng Vit thường được gi là gi cu nguyn, gi kinh nguyn, gi nguyn ngm, gi tĩnh tâm, gi hay phút suy nim, gi hay phút tâm s vi Chúa (cách trc tiếp, riêng tư và thm lng vi Thiên Chúa)... Nhưng tuyt nhiên chưa h được nghe dùng đến t THIN mt cách chính thc trong Giáo hi Công giáo Vit Nam.


P. Mai T Cường, Kon Tum