Thứ Bảy, 11 tháng 5, 2013

Hàn mặc Tử: Thiên thần bị đầy đọa



09:51 | 07/05/2013
Quê Đồng Hới - Quảng Bình nhưng thi tài Hàn Mặc Tử chói sáng đỉnh điểm khi về sống ở Quy Nhơn - Bình Định những năm cuối cuộc đời ngắn ngủi. Có một thiên cơ giữa đất và người...
Hàn mặc Tử: Thiên thần bị đầy đọa
Mộ Hàn mặc Tử tại Ghềnh Ráng - Quy Nhơn
1. Từ tuổi học trò ở Quy Nhơn những năm sáu mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã rất ngưỡng mộ thơ Hàn Mặc Tử và xem vết tích của ông để lại ở đất này là niềm tự hào và quyến rũ: Ngôi nhà tuổi thơ số 20 đường Khải Định (nay là ngã tư Lê Lợi - Nguyễn Du); mái trường College ông dệt mộng đèn sách; thư viện nơi ông bươn bả với kiến thức kim cổ đông tây; bãi biển trăng và cát vàng mộng mị; những con đường rụt rè, những tình yêu; căn phòng thơ và bạn bè; xóm Tấn nơi lánh bệnh; nhà thương phong điều trị bệnh và ngôi mộ trên đồi Ghềnh Ráng…

Lời bài hát "đường lên dốc đá nửa đêm trăng tà…" đã ru chúng tôi vào một Quy Nhơn hoang sơ đẹp và buồn của mối tình thi sĩ và cái dốc Mộng Cầm đã trở thành địa danh nôn nao bổi hổi. Tôi có duyên may được gặp gỡ và trò chuyện với ba trong bốn nhà thơ lớn của nhóm "Bàn Thành tứ hữu" là Quách Tấn, Yến Lan và Chế Lan Viên. Thông qua họ, tôi hiểu thêm về Hàn Mặc Tử trong lòng những người bạn của ông. Bây giờ trong cõi xa kia, bốn người bạn thân ở thành Đồ Bàn đã gặp lại nhau nơi cõi khác, chẳng chỉ "nửa đêm trăng tà" mà còn bất cứ lúc nào, như ngày xưa trẻ trung ở Quy Nhơn, trong những lần tìm đến nhau, thăng hoa trong thơ ca và tình bạn. Hàn Mặc Tử sinh ngày 12 tháng Tám âm, nhằm ngày 22/9/1912, mùa trăng, Chúa nhật, ngày của Chúa,…
2. Hàn Mặc Tử không phải một tông đồ truyền giáo mà là "loài thi sĩ" đã xác lập định mệnh thơ với nguồn mạch của một thế giới tân kỳ, không phải đi rao giảng đức tin tôn giáo mà quán chiếu trời thơ như một sứ điệp của tình yêu cuộc sống hoàn vũ. Không phải là linh mục để thực hiện nghi thức bí tích, nhưng Hàn Mặc Tử vẫn là một kẻ chăn chiên chăn dắt tình yêu và gieo vào ân sủng thơ ca một mùi dầu thánh.

Tôi đã lặn lội trong âm thanh tuyệt diệu và mầu nhiệm những bài ca của Sa-lô-môn trong Kinh Thánh,  tìm một nguồn gốc của sự vui vẻ thanh sạch và cao quý những nam nữ rất thanh khiết "như con hoàng dương hay là như con nai con ở trên các núi thuốc thơm" để quay về với đời và thơ Hàn Mặc Tử. Đó là một tình yêu tràn trề chảy qua vườn nho chín mọng, hoa tường vi trắng hồng, lai láng dưới răng, lưỡi, bầu vú, trong ngũ quan líu lo những mật ong và sữa. Khi người ta yêu nhau, có thể lắng nghe mọi âm thanh ngây ngất, nhìn mọi chi tiết đắm đuối của thân tâm trong bản giao hưởng thế giới tạo vật muôn trùng.
Hàn Mặc Tử, dưới góc độ nào đó, ở đầu thế kỷ XX phân thân trong hoàng đế Sa-lô-môn, trong kẻ lương nhân, và trong cả cô gái đồng trinh mà mấy nghìn năm rồi, thường hằng trong thánh ca bất tử: "Nguyện người hôn tôi bằng cái hôn của miệng người. Vì ái tình chàng ngon hơn rượu.  Danh chàng thơm như dầu đổ ra; Bởi cớ ấy các gái đồng trinh yêu mến chàng. Hãy kéo tôi; chúng tôi sẽ chạy theo chàng, Vua đã dẫn tôi vào phòng Ngài. Chúng tôi sẽ vui mừng và khoái lạc nơi chàng. Các gái đồng trinh yêu mến chàng cách chánh trực". Và bắt đầu một hành trình sáng tạo, Hàn đã lấy máu làm mực, lấy trăng làm giấy, kẻ lên đó những vần thơ khai phóng làm ngây ngất những tinh cầu: "Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt/ Như đón từ xa một ý thơ".

Hàn Mặc Tử bày biện cuộc mình như một thánh lễ, giấy bút vào hành trình: "Mực lùa khí vị vô hồn chữ/ Văn hút hào quang ở miệng ra". Dù khi hối hả (như một cái máy vi tính tiên tri mà thời Hàn chưa có): "Thơ chưa ra khỏi bút/ Giọt mực đã rụng rồi/ Lòng tôi chưa kịp nói/ Giấy đã toát mồ hôi" hay trầm tĩnh thức nhận "Người thơ chưa thấy ra đời nhỉ/ Trinh bạch ai chôn tận đáy mồ", và niềm sám hối "Đời không có ngọc trong pho sách/ E chết khôi nguyên ở Phượng Trì" luôn luôn là nỗi ám ảnh để nhà thơ đi tìm châu báu trong trần gian: "Trái cây bằng ngọc vỏ bằng gấm/ Còn mặt trời kia tợ khối vàng". Thánh lễ của Hàn, từ cuộc khai tâm "Thuở ấy càn khôn mới dựng nên/ Mùa thơ chưa gặt tốt tươi lên/ Người thơ phong vận như thơ ấy/ Nào đã ra đời ngọc biết tên", qua rửa tội "Xin thứ tha những câu thơ tội lỗi/ Của bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng", đến cuộc hòa minh: "Anh đứng cách xa hàng thế giới/ Lặng nhìn trong mộng miệng em cười/ Em cười anh cũng cười theo dọi/ Để nhắn hồn em đã tới nơi", rồi ơn gọi: "Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu/ Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu/ Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang" cho tới tận cùng "Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết/ Trải niềm đau trên trang giấy mong manh/ Đừng nắm lại nguồn thơ ta đang siết/ Cả lòng ta trong mớ chữ rung rinh" là thánh lễ của một kẻ tuẫn đạo để cứu rỗi. Điều này thuộc về định mệnh. Bầy chiên ngôn ngữ đã được quán triệt trong thể xác và linh hồn người thơ, và người thơ lộn trái thịt da cốt tủy ra trình bày dưới ánh sáng, theo một nhu cầu nội tại chân thực và thành kính. Hàn Mặc Tử đã tự thắp những vầng trăng trên thánh lễ, từ y phục: "Áo ta rách rưới trời không vá/ Suốt bốn mùa trăng mặc vải trăng" đến lương thực: "Trời hỡi làm sao cho khỏi đói/ Gió trăng có sẵn làm sao ăn" đến tiện nghi: "Tôi lượm lá trăng làm chiếu trải" và trải nghiệm "Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy/ Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra" nhưng cuối cùng vẫn chơi trên trăng với mục đích: "Để nghe tiếng nhạc Nghê Thường thổi/ Để hớp tinh anh của Nguyệt Cầu/ Và để thoát ly ngoài thế giới…". Tự gọi tên "Máu cuồng và Hồn điên", Hàn Mặc Tử đã trải qua những cơn đau đớn giày vò về thể xác lẫn tinh thần, muốn thoát hồn ra ngoài xác thịt mà "Đo từ ngọn cỏ tới cung trăng", một cự ly quán thế cả và thiên hạ để "Ràng rịt mãi cho tới ngày tận thế". Đó là cuộc lữ hành lý tưởng của "loài thi sĩ" để tìm một nụ cười an lạc trong niềm đau cùng cực của một hình hài.

3. Nỗi cô độc của một thiên tài thơ ca là nỗi cô độc trong sum vầy, như đỉnh núi đột khởi giữa điệp trùng gò đống. Đời Hàn Mặc Tử luôn luôn hiện hữu song hành với thơ Hàn Mặc Tử, trong tình yêu của mọi người dành cho Hàn Mặc Tử suốt trăm năm nay. Và dù chưa có một thống kê xã hội học chính thức, tôi vẫn nhận thấy mộ Hàn Mặc Tử trở thành một trong những địa điểm hành hương được người mến mộ viếng thăm nhiều nhất trong số các nhà thơ Việt! Tôi đã đọc trong nước mắt của những vần thơ do khách đa tình sau mấy thế hệ viếng Hàn, nghe rào rạt sức sống của Hàn trong nguồn cảm hứng tinh khôi của họ, như dành cho người lương nhân trong Nhã Ca: "Vừa sớm mai, chúng ta sẽ thức dậy, Ði đến vườn nho, đặng xem thể nho có nứt đọt, Hoa có trổ, thạch lựu có nở bông chăng: Tại đó tôi sẽ tỏ ái tình tôi cho chàng. Trái phong già xông mùi thơm nó; Và tại cửa chúng ta có những thứ trái ngon mới và cũ; Hỡi lương nhân tôi, tôi đã để dành trái ấy cho chàng!".
Chúng ta đều biết, ở Bình Định có vị anh hùng kiệt xuất Quang Trung - Nguyễn Huệ và cuộc đời và sự nghiệp của ông đã trình bày thánh tích của một thiên tài. Thiên tài quân sự bách chiến bách thắng đã đưa một người nông dân lên ngôi hoàng đế, đưa những tấc sắt thành lưỡi gươm thiêng đại định thiên hạ. Tất nhiên, không ai đi so sánh 39 năm hiển hách huân nghiệp của một người bước lên ngai vàng với 28 năm của một dân đen dù dân đen ấy là một thiên tài thi ca mang tên Hàn Mặc Tử. Tuy nhiên, ở góc độ nào đó, nhà thơ đồng nghĩa với anh hùng văn hóa. Ai dám bảo đạo quân chữ nghĩa của Hàn Mặc Tử không phải được sinh thành bởi hương thơm và ánh sáng, không có khả năng chinh phục nụ cười nước mắt của thiên hạ trong nhiều thế kỷ tiếp theo.

Sự ngắn ngủi của đời họ là dồn nén của bùng nổ và nguồn cảm hứng thiên hạ dành cho họ sẽ không bao giờ vơi cạn. Thửa ruộng Hàn Mặc Tử, tòa nhà Hàn Mặc Tử, ngôi đền Hàn Mặc Tử sẽ làm cuộc giãi bày cho đến muôn sau, trong cuộc cứu rỗi thi ca thiên khởi, uyên nguyên, xa lạ với cuộc ma-ra-tông rượt đuổi trường phái, chủ thuyết, trào lưu, nắm chiếc đuôi khôn ngoan của cỗ xe ngựa triết học kinh viện. Cái đời thơ kỳ lạ ấy đã thực hiện sứ mệnh như một thiên thần bị đày đọa, đã đau khổ và yêu thương đến cùng cực khi trót một lần hẹn thề cùng cõi nhân gian

Theo  Nguyễn Thanh Mừng - VNCA

Philipphê Bỉnh - Nhà văn hóa quốc ngữ đầu tiên, bị lãng quên



16:15 | 06/05/2013
HOÀNG HƯƠNG TRANG 

Chữ Quốc Ngữ (Q.N) viết theo dạng 24 chữ cái ABC xuất xứ từ các Thầy Dòng truyền giáo Tây Phương mang vào nước ta, cho đến nay gọi là được phổ biến trên dưới trăm năm, gói gọn vào thế kỷ 20.
Philipphê Bỉnh - Nhà văn hóa quốc ngữ đầu tiên, bị lãng quên
Hai trong số những trang sách của Philipphê Bỉnh
Trước đó nữa, phổ biến vẫn chỉ là chữ Hán, chữ Nôm, tiếp đến là chữ Pháp rồi mới đến Q.N. Các cụ xưa, chẳng mấy ai đưa ngôn ngữ bình dân đại chúng vào tác phẩm, vì thế ngày nay, những nhà ngôn ngữ học, hay nghiên cứu về văn hóa dân gian, gặp không ít khó khăn. Đa số sách chữ Nôm là khá gần ta nhất, thì cũng toàn văn vần, thơ, phũ, biền ngẫu, thoát thai từ Hán văn, văn Hán và Nôm đều quá sơ lược, đơn gọn, không phản ảnh được đúng ngôn ngữ bình dân, mà qua thời gian, dòng ngôn ngữ ấy đã biến thiên rất nhiều.

Thuở ấy, chưa phải là xưa lắm, đến cái chữ Nôm còn bị dè bỉu là “mách qué”, đã học là phải học chữ Hán mới đúng “cửa Khổng sân Trình”, huống hồ cái chữ Q.N, bị coi là thứ chữ “Bò ngang như cua” của Tây Dương đem lại. Do đó, chữ Q.N đã được khai sinh và hoàn chỉnh khá lâu, từ thời Trịnh Nguyễn, nhưng chỉ dùng cho các vị Cố Đạo, thương nhân nước ngoài, mặc dầu đã có tự vị hẳn hoi, mà vẫn còn xa lạ với người đi học. Nề nếp và ổn định thì chỉ trên dưới trăm năm thôi, giai đoạn đầu cũng chỉ học thuần chữ Pháp, mãi mới chuyển Q.N được. Nhưng từ khi phổ biến bộ chữ Q.N là ta gặp ngay mọi sự dễ dàng, trong khi đó, những nước dùng chữ tượng hình như Tàu, Nhật, Hàn, và các nước theo chữ Á Rập rất khó hội nhập với các nước có bộ chữ cái La Tinh. Ta rất may mắn, tuy rằng mấy nghìn năm lệ thuộc Phương Bắc, thế mà khi có chữ Q.N, ta nhanh chóng, dễ dàng vượt thoát ra khỏi cái vòng đai khổ ải của thứ chữ tượng hình như vẽ bùa ấy.

Trước giờ các nhà nghiên cứu hầu như đồng ý với lập luận rằng, chữ Q.N được khai sinh bởi cha đẻ A. De Rhodes, Béhaine hoặc một vài vị cố đạo đồng thời, và cũng chỉ nghĩ rằng, chỉ có các vị cố đạo nước ngoài như thế thôi, thật là thiếu sót và oan uổng! Thật ra ta đã có một vị Thầy Cả thuần chất, sinh năm 1759 đến 17 tuổi vào tu ở nhà Dòng, rồi đi chu du nhiều nước, ông viết nhiều sách, soạn và san định nhiều bộ tự điển đầu tiên cho người Việt dùng. Bằng chữ Q.N chính hiệu, mà ngày nay đọc nó vẫn còn trôi chảy, vẫn hiểu như ngôn ngữ ta dùng hiện nay. Ông viết bằng thứ văn xuôi như nói chuyện, nói sao viết vậy. Chuyện ông viết vừa nhật ký, ghi chép biên niên, hoạt động của Dòng Chúa, của nhà thờ, của Giáo Hội trong và ngoài nước, sinh hoạt ngày thường của xã hội ta, xã hội Tây Phương, các nước ông đã đến, các nghề nghiệp lúc bấy giờ, cách ăn uống, ăn mặc, tế lễ, tang ma, ông quan sát rồi vẽ ra những vật dụng ta chưa làm được, như cái bàn in để in tranh tượng thờ, cái bàn nghiền bột thô sơ để lấy bột làm bánh thánh, cái máy dệt cổ sơ của tây phương, ông ghi chép, vẽ lại tỉ mỉ mọi sinh hoạt xã hội, so sánh cách sống văn minh hơn, có khoa học hơn, vệ sinh hơn của xã hội tây phương với cách sống còn lạc hậu, thiếu vệ sinh, thiếu khoa học của dân ta. Từ cách nhà thoáng mát, sơn quét đẹp mắt, giường nệm trắng tinh, phòng ngủ phòng ăn tươm tất, bữa ăn nhiều chất đạm, nuôi con sạch sẽ không mớm cơm nhai như các bà mẹ ta thời ấy... tất cả được viết lại bằng một thứ chữ Q.N, văn nói bình dân, đầy đủ, lưu loát, dễ hiểu.

Toàn bộ sách của ông, có cuốn đã in, có cuốn viết tay, kể cả những bộ tự vị mà ta biết của các vị cố đạo, những bộ được đánh giá là “Tối cổ”.

Ông, một người Việt thuần chất, viết cho người Việt đọc, chúng ta không ai biết ông, hầu như chưa ai nhắc tới ông bao giờ, ông đã bị lãng quên!

May thay, một số sách của ông còn lưu giữ kỹ càng ở thư viện Tòa thánh Vatican, được cầm trên tay những trang sách viết nắn nót của ông, thật bồi hồi xúc động, trên 200 năm trước đã có một con người Việt Nam như thế. Ông là Thầy Cả Philipphê Bỉnh, ông không để lại cho chúng ta một hình vẽ, một pho tượng nào cả, nhưng chân dung ông thì rất rõ nét. Ông là người Việt Nam viết văn Q.N đầu tiên, khác hẳn với tính cách những nhà truyền giáo nước ngoài đồng thời với ông. Tiếc là ông đã không ghi họ gì, chỉ ghi tên Thánh trước tên thật, ông người xứ Hải Dương, phủ Hạ Hoàng, huyện Vĩnh Lại, xã Ngãi An, thôn Địa Linh, sinh năm 1759, 17 tuổi vào Dòng tu, rồi đi chu du nhiều nước theo các Dòng thánh, ông đã sống ở nhiều nước tây phương và Á Châu, ông không nhắc gì đến quãng đời thơ ấu, cha mẹ, anh em, do đâu mà ông đi tu, chỉ nói sơ lược đến quê quán. Ông đi tu và học ở trường Kẻ Vĩnh lúc 17 tuổi (1775), đến 1793 ông được thụ phong linh mục, cuộc đời học vấn và tu tập gần ngót 20 năm ông ghi đầy đủ những ngày ông được thụ chức trong giáo hội. Có lẽ ông là người có học vấn và học đạo xuất sắc hơn người, nên vừa thụ phong linhmục xong, nhận vật kỷ niệm, khao vọng anh em nhà dòng, là được trao phó ngay chức vụ đảm nhiệm rất quan trọng, chức giữ việc trong giáo hội, tức quản lý tài sản tiền bạc của giáo hội, công việc ấy rất nặng nề, trách nhiệm, phải rất xuất sắc, uy tín mới được giao. Ông tự ví: “Thầy cả giữ việc Vít vồ thì chẳng khác gì như quan Tọa triều” (Vít vồ tức quản lý, ngày nay không còn thấy trong chữ Q.N nữa). Với chức vụ ấy, ông có cơ hội đi lại nhiều lần giữa Việt Nam - Macao - Goa (một xứ ở Ấn Độ) rồi sang Trung Hoa (ông ghi là nước Đại Minh) và nhiều nước khác, để lo việc đạo, uy tín ông ngày càng tăng.

Lúc bấy giờ, phát sinh ra việc tranh chấp cực kỳ nặng nề giữa hai phe truyền giáo là dòng Đa Minh và dòng Tên, có áp lực chính trị quốc tế xen vào, tòa thánh La Mã lại dường như nghiêng về phía dòng Đa Minh mà bỏ rơi dòng Tên, ông đã cùng một phái đoàn thầy giảng Việt Nam sang tận Bồ Đào Nha yết kiến nhà vua, nhờ can thiệp với Tòa Thánh, nhưng không được giúp đỡ mà còn bị lưu vong ở Lisbone hơn 30 năm rồi chết ở đấy. Trong hơn 30 năm này ông dùng để trước tác, biên soạn tự vị, sao chép sách vở, viết nhật ký với ý đồ gởi về quê hương toàn bộ tác phẩm của mình, ông viết công phu, tỉ mỉ, không có ý làm văn chương, nhưng là biên soạn, ghi chép những việc thật, người thật ở xứ người, tả đầy đủ, rõ ràng xã hội Tây phương bấy giờ, và so sánh với xã hội ta, mong muôn lúc trở về sẽ truyền bá, cải tiến cho bằng người. Tiếc thay, ông đã không làm được vì đã chết ở đất nước người sau hơn 30 năm lưu vong vì sự phân chia hai dòng truyền giáo mà ông đã bất lực không kết hợp lại được.

Những sách của ông, theo di chúc, được gởi về quê hương song khi ấy dòng Đa Minh và dòng Tên còn đang kháng nhau kịch liệt, đốt cả nhà thờ của nhau, bắt giáo sĩ của nhau nhốt cả vào chuồng trâu bò, kể cả việc đổ máu, việc chia rẽ diễn ra khắp các nước có giáo hội của hai dòng. Riêng nước ta cũng nhằm vào thời các vua Nguyễn bài đạo Ki Tô ráo riết, nên những sách ông gởi về không biết lưu lạc phương nào? Chút may mắn còn lại là thư viện Tòa thánh Vatican còn lưu của ông một số ít, không tới một phần hai mươi số sách của ông (so với bản kê khai sách trong thư viện riêng ông, chính tay ông viết), may thay, trong đó còn lại cuốn quan trọng hơn cả, cuốn viết tay, nhan đề “Sách sổ sang chép các việc” là cuốn có cái nhìn tổng quan, bao quát, của sự nghiệp trước tác và cả thời đại ông sống. Cũng từ cuốn này ta có thể so sánh chữ Q.N buổi bình minh ấy với hiện tại, cách nhau ngoài 200 năm đã có những biến thiên gì?

Xuyên suốt cuộc đời ông đã sống, làm việc, đọc ông dù còn lại không nhiều, chân dung ông như hiển hiện trước mắt, một vị thầy cả trầm tư, đạo mạo, thông thái, cần cù nhẫn nại.

Chỉ riêng một cuốn sách ít ỏi mà nay ta còn lại trong tay, dày trên 600 trang, do chính ông viết tay nắn nót cẩn thận, nếu có được tất cả sách của ông đã viết thì chúng ta đã có thể có cả một kho báu văn học Q.N buổi đầu đồ sộ đến nhường nào?

Sự nghiệp của Philipphê Bỉnh rất lớn lao, ông là một tài năng đa dạng, về ngôn ngữ học, xã hội học, nhà văn và họa sĩ. Riêng trên lĩnh vực từ điển, ta sẽ tìm thấy những gút mắc về những bộ từ điển được gọi là “tối cổ” mà lâu nay coi như đã thất lạc không còn tìm ra manh mối, thì nay những mấu chốt ấy có thể thấy được trong sách của Philipphê Bỉnh, những cuốn từ điển “Tôi tối cổ”, cổ hơn cả những cuốn của A.de Rhodes in năm 1651, của Pigneau de Béhaine đã bị cháy ởCà Mau đầu thế kỷ 19, hay cuốn của Tarberd tu bổ lại cuốn bị cháy. Hai cuốn “Tôi tối cổ” là hai cuốn đã được nhắc đến trong bài tựa của cuốn tự vị cổ nhất in 1651 của de Rhodes, đó là hai cuốn của Gaspas D’amaral, và Antonio Barbosa mà tưởng chừng không bao giờ còn cơ hội thấy bóng dáng. Việc vô cùng quan trọng này, trong phạm vi một bài viết ngắn không thể nói hết được, phải chờ những nhà nghiên cứu văn học, ngôn ngữ, của ta sẽ làm việc đầy đủ hơn, để đưa ra ánh sáng, vì đó là những bộ sách quý giá hiếm hoi của chữ Q.N trong buổi đầu và là cái mốc của lịch sử văn học Quốc Ngữ. Có thể nói Philipphê Bỉnh là nhà văn viết bằng Q.N hoàn chỉnh nhất và đầu tiên của nước ta. Ông biết nhiều thứ tiếng, nhất là Pháp và La Tinh, nhưng không viết tiếng nước ngoài mà người chỉ chăm chú viết tiếng Việt cho người Việt đọc, lòng yêu dân tộc của ông rất cao. Ở cách chúng ta ngoài 200 năm đã có một tấm lòng, một khối óc, một tài năng như thế, đã đóng góp trí tuệ mình vào gia tài văn hóa dân tộc, thật đáng cho chúng ta tôn vinh, ngưỡng mộ và tri ân.

Cũng từ cuốn sách này mà ta có thể so sánh chữ Quốc Ngữ buổi đầu với hiện tại, cách nhau trên 200 năm mà đã có những biến thiên gì? Ví dụ:

Nay ta viết và đọc: Đức Chúa Trời, Cũng như, Cùng nhau, Quản lý, Hạ Hoàng, Huyện, Thôn, Dòng Chúa, Thầy Dòng, Song le, Trước khi,...

Thì lúc bấy giờ, Philipphê Bỉnh viết: Đức Chúa Blời, Cŭ~ như, Cŭ` nhau, Vít vồ, Hạ Hàǒù, Huện, Tôn, Dàõ Chúa, Thầy Dàõ, Saǒ le, Trc' khi...

Ông lại còn dùng rất nhiều chữ viết tắt như: Rg` (rằng) Ng` (người) Chg’ (chẳng)... riêng chữ Vít Vồ (tổng quản, quản lý) cho đến nay không còn dấu vết trong chữ viết và ngôn ngữ của ta, chỉ phỏng đoán theo ý của toàn câu thì nó có nghĩa là một chức vụ quan trọng như tổng quản, quản lý, trông coi tiền bạc, tài sản của giáo hội, chứ không thể tìm đâu ra chữ “Vít vồ” tương đương với chữ gì hiện nay.

Cũng cần cảm ơn người đã có công khám phá ra kho tàng sách vở của Philipphê Bỉnh là linh mục Thanh Lãng, một nhà giáo, nhà nghiên cứu văn học, Chủ tịch Trung tâm Văn Bút VN trước 1975, ông đã bỏ ra nhiều công sức và tiền bạc chụp lại phim toàn bộ bộ sách của Thầy Cả Bỉnh còn lưu lại ở thư viện Tòa thánh Vatican, mục “Tài liệu Bắc Kỳ”, mang số Borghese Tonchino 3, kho tàng ấy đã chìm vào lãng quên hơn 200 năm, chúng ta không thể lại để tiếp tục lãng quên, sẽ có tội với tiền nhân và nền văn hiến nước nhà.

Bài viết ngắn này, chúng tôi tha thiết mong liên Bộ Giáo dục - Đào tạo và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu, truy tầm, những tác phẩm vô giá về văn học Quốc Ngữ này, hiện còn lưu giữ ở thư viện Tòa thánh Vatican, nước Ý.

H.H.T
(SDB8/3-13)

Thứ Tư, 1 tháng 5, 2013

Chết Để Con Được Học: Khi Cái Chết Là Lựa Chọn Cuối Cùng!



29TH. 4
Anh Bảo và các con đau xót trưc cái chết chị Nhân
Huỳnh Khánh Vy, Blogdanlambao - 4.2013:  Sáng nay, tình cờ đọc một bài trên báo Pháp luật có tựa “Chết để con được học”. Bài báo kể về một phụ nữ tên là Nguyễn Thị Mỹ Nhân, 48 tuổi ở tạiTP Cà Mau. Do hoàn cảnh gia đình chị quá khó khăn và quẫn bách cùng với tình trạng đau ốm của bản thân đã khiến chị phải tìm đến cái chết trong tột cùng tuyệt vọng, bỏ lại chồng và ba đứa con chỉ với mong muốn là các con chị được tiếp tục đi học. Chị chết đi sẽ bớt đi khoản tiền thuốc 140.000 đồng/ ngày để lo cho con có tiền tiếp tục việc học.

Sau khi đọc xong bài báo, tôi cảm thấy lòng mình nặng trĩu và một cảm giác tủi thân ghê gớm dâng nghẹn trong cổ. Cũng là một người phụ nữ, một người mẹ, tôi có thể hiểu và cảm nhận tình thương yêu vô bờ bến mà chị Nhân dành cho các con mình. Chị sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình để con cái được học hành đến nơi đến chốn. Chị gợi lên trong tôi hình ảnh tảo tần sớm khuya và đức hy sinh cao cả của người phụ nữ Việt Nam xưa nay. 
Nhưng ở đây, sự hy sinh của người mẹ Việt Nam không còn là bỏ đi những niềm vui trong cuộc sống, bỏ đi những giây phút thảnh thơi và tuổi xuân để chăm lo cho cái, mà sự hy sinh đó là cả một mạng sống. Thiết tưởng, bằng cái chết tức tưởi ấy, liệu sự hy sinh này của chị có xứng đáng hay không? Nếu chị được sống trong một xã hội khác đi liệu chị có phải chết một cách oan uổng vậy không?

Ai cũng biết sinh mạng con người là vô cùng quý giá. Đến một cụ già mà vẫn còn muốn sống huống chi là chị một người phụ nữ chưa đầy 50 tuổi. Người ở quê tôi có câu nói, tuy nghe có thô tục thật, nhưng nó thể hiện rõ ham muốn được sống của con người : “con chó ăn … còn muốn sống huống chi con người”. Chị cũng vậy, chị cũng muốn được sống lắm chứ, sống để không uổng phí cuộc sống quý giá mà cha mẹ ban cho, sống để cùng chồng chia sẻ buồn vui“duyên ba sinh”, sống để nhìn thấy các con trưởng thành… Thế mà, chị không còn cách nào khác ngoài việc chọn lấy cái chết để “lấy ít tiền phúng điếu” cho chồng con sau cái chết của mình.

Phải đến tận cùng tuyệt vọng, phải là khi con người người ta bị dồn vào ngõ cụt không có lối thoát thì mới nghĩ đến cách này. Thật buồn đau cho số phận của chị! Nhưng nhìn lại, nỗi buồn tủi cùng cực đó đâu phải chỉ của một mình chị, bởi nó là vận mệnh chung của tất cả những người đang bị gạt ra bên lề xã hội Việt Nam hôm nay. Tại sao thân phân con người trong xã hội Việt Nam này lại rẻ rúng như vậy? Hỏi cũng chính là đã trả lời.

Dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, chúng tôi đã được nhồi nhét vào đầu một mớ những văn chương thi phú “cách mạng”, nhưng cũng một số những tác phẩm văn học hiện thực phê phán thời Pháp mà các thầy cô đã cố nhuộm cho “đỏ” lên. Hình ảnh chị Dậu hiện lên trong tác phẩm“Tắt đèn” của Ngô Tất Tố được hiểu như là một biểu tượng đau đớn của một dân tộc vong quốc. Người dân nước Nam phải chịu đựng những chà đạp bất công, bất nhân dưới thời thực dân đã đành. Đằng này, chị Nhân đang sống trong một xã hội hiện đại của thế kỷ 21, dưới một chính quyền luôn rêu rao là “của dân, do dân và vì dân” mà chị lại phải hứng chịu một bi kịch như vậy. Thật quá mỉa mai!

Tôi tin rằng trường hợp của chị không phải cá biệt, nhiều gia đình, nhiều số phận cũng rơi vào hoàn cảnh như chị. Chỉ có điều, nó không được đưa lên báo nên không ai biết mà thôi. Vậy thì, đất nước này có thực sự được “giải phóng”như những người cộng sản Việt Nam vẫn tự mãn hay không? Hay thực ra nó chỉ là sự thay thế một chính quyền thực dân thời Pháp và một chế độ dân chủ non trẻ thời Việt Nam cộng hòa thành một nhà nước độc tài cộng sản tàn ác không kém nếu không muốn nói là hơn, những tên thực dân?!

Quyền được thụ lãnh cơ hội giáo dục và nghề nghiệp là quyền cơ bản bất khả xâm phạm của con người. Nó đã được quy định trong Hiến pháp Việt Nam và chính vì có những quyền như thế mà con người được định nghĩa là “con người”. Thế nhưng, dù đang sống trên chính quê hương“độc lập tự do” của mình, chị đã phải dùng mạng sống để đánh đổi cái sự học cho con cái. Nếu việc này không được chính một tờ báo của Nhà nước này đăng tin mà do ai đó trong chúng ta đưa tin lên, thì tôi nghĩ chắc nhiều người không tin và còn cho đó là bia đặt, là nói xấu chế độ.

Qua chuyện này, ta càng thấy rõ hơn bộ mặt thật của chế độ độc tài mà người dân Việt Nam đang phải sống và chịu đựng. Thật xót xa cho số phận những người phụ nữ Việt Nam nói riêng và tất cả con dân Việt Nam nói chung khi phải sống trong cam chịu và khổ đau mà phải mang ơn công “giải phóng" của “Bác Hồ và Đảng”.

Là một bà mẹ trẻ, tôi thật sự lo lắng cho tương lai của con mình. Rồi đây, tương lai của con tôi sẽ đi về đâu khi phải sống dưới một chế độ độc tài với đầy rẫy bất công và quyền con người bị chà đạp như vậy? Nó sẽ biết ơn tôi hay trách tôi đã mang nó vào cuộc đời này, khi từ lúc nó còn chưa lọt lòng, bố mẹ nó đã phải chịu bao sách nhiễu từ chính quyền, chỉ vì ông ngoại và dì nó là những người phản kháng chế độ?!
Bức thư chị Nhân gửi Chồng - Con trước lúc từ giã