Thứ Ba, 1 tháng 10, 2013

''Tôi là một người tội lỗi''


9/30/2013 11:11:38 PMĐây là bài viết của tiến sĩ Stephen Bullivant đăng trên tạp chí America. Ông là giáo sư về Thần Học và Luân Lý của Đại Học Saint Mary ở Anh Quốc.
Nội dung nói về lòng khiêm nhường thẳm sâu của Đức Thánh Cha Phanxicô. Sự khiêm nhường không chỉ là “một màn trình diễn” nhưng “thay vào đó, nó diễn tả một niềm xác tín chính yếu của đức tin Kitô giáo.” Bởi vì “Đối với người Kitô hữu, sự héo hon sầu muộn mà người ta cảm thấy vì tội lỗi của mình thì, hoặc phải là, được nâng đỡ với niềm hy vọng vào Đấng “giàu lòng thương xót” (Eph 2,4). Cùng với sự buồn sầu sâu xa vì đã phạm tội, đem đến sự nhận biết giá trị lớn lao của Ngài, Đấng có thể, và sẵn lòng, tha thứ cho chúng ta.”… “Trong cuộc phỏng vấn đáng chú ý của cha Antonio Sparado, Đức Phanxicô đồng hóa mình với thánh Matthêô người thu thuế trong tranh của Caravaggio: “Đó là tôi. Tôi cảm thấy giống như ông ấy… Ở đây, đây là tôi, một kẻ tội lỗi mà Chúa đã đoái nhìn.” Đây là sự khiêm nhường đích thực, cùng một lòng khiêm nhường mà chúng ta thấy nơi một người thu thuế khác trong Phúc Âm –người thu thuế trong Đền Thờ, anh ta la lớn ‘Lạy Chúa, xin thương xót tôi, một người tội lỗi!’ (Lc 18,9-14).”…  

PopeFrancis-29Sep2013-03.jpg



“Jorge Mario Bergoglio là ai?” “Tôi là một người tội lỗi. Đây là sự xác định đúng đắn nhất. Nó không phải là một lối tu từ của lời nói, một thể loại văn học. Tôi là một người tội lỗi.” Đây là những lời mà người đọc có thể dể dàng bỏ qua. Rốt cuộc, sự thú nhận và những hành vi khiêm tốn của Vị Giáo Hoàng của chúng ta đã trở nên một trong những thương hiệu của ngài. Nếu ngài đã không cởi mở với một vài nhận xét tự coi thường mình, thì điều đó có thể là tin tức. Nhưng những người khôn ngoan đang theo dõi Đức Phanxicô có thể nhận biết rằng những mẫu tin đầy bất ngờ -và chắc chắn với vị giáo hoàng nầy, trong cách thức nầy, và với các chi tiết nầy, có thể sẽ có những mẫu tin đầy bất ngờ- có thể sẽ đến sau nầy.

Tuy nhiên, sự khiêm tốn của Đức Phanxicô không phải như của nhóm Uriah Heep (Ban nhạc Rock của Anh, nổi tiếng khoảng thập niên 1970): đơn thuần một màn trình diễn chính thức gọi là “rất khiêm tốn”. Thay vào đó, nó diễn tả một niềm xác tín chính yếu của đức tin Kitô giáo. Như chúng ta đã biết, Hồng y Bergoglio đã chấp nhận sự bầu chọn ngài làm Giáo hoàng với những lời nầy: “Tôi là một người tội lỗi, nhưng tôi tín thác vào lòng thương xót và kiên nhẫn vô bờ của Chúa Giêsu Kitô.” Và những lời thì thầm nầy, tôi đã nhận ra được khi đọc bài phỏng vấn, giúp giải thích rất nhiều những lời phát biểu hóm hỉnh của Đức Thánh Cha.

Đối với người Kitô hữu, sự héo hon sầu muộn mà người ta cảm thấy vì tội lỗi của mình thì, hoặc phải là, được nâng đỡ với niềm hy vọng vào Đấng “giàu lòng thương xót” (Eph 2,4). Cùng với sự buồn sầu sâu xa vì đã phạm tội, đem đến sự nhận biết giá trị lớn lao của Ngài, Đấng có thể, và sẵn lòng, tha thứ cho chúng ta. Vì vậy, những lời của Thư 1 gởi Timôtê chương 1 câu 15 nói: “Đây là lời đáng tin cậy và đáng được mọi người đón nhận: Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi”. Hoặc như thánh Phaolô viết trong thư gởi người Roma, “ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (5,20). Từ thánh Phaolô và thánh Augustinô, cho đến thánh nữ Dorothy Day và Mẹ Têrêxa, đó là những vị thánh luôn ý thức cách rất đau buồn về tội lỗi của mình và họ cần đến lòng thương xót Chúa biết bao. Như nữ thánh Gemma Galgani diễn tả: “Hãy nghĩ đến tất cả tội lỗi mà những tội nhân lớn nhất đã phạm, tôi đã phạm nhiều như vậy.”

Nếu “tội lỗi” là một khái niệm đã lỗi thời, chữ mà dường như đã không đụng đến được Nhà Thánh Matta. Đức Phanxicô dùng nó thường xuyên, và không chỉ khi nói cách thẳng thắng về lỗi tội của riêng mình. Ở một nơi nào đó trong cuộc phỏng vấn, ngài nói về “đời sống của một con người” như “một mảnh đất đầy gai góc và cỏ dại,” và -trong khi khai triển thánh Augustinô- phác thảo cái nhìn của ngài về Giáo Hội như một “bệnh viện dã chiến” đang thực hiện việc cấp cứu (“Hãy chữa những vết thương, hãy chữa những vết thương”). Dĩ nhiên, đàng sau mỗi một của những hình ảnh nầy, là một ý tưởng của Tin Mừng: “nhưng nỗi lo lắng sự đời, và bả vinh hoa phú quý” có nguy cơ bóp nghẹt lời của người gieo giống (Mc 4,19), và lời công bố của Đức Kitô, “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mc 2,17).

Vài chủ đề yêu thích của Đức Phanxicô -sự thú nhận, sự hối hận, sự tha thứ- tất cả đều bao hàm tội lỗi, và đau buồn vì nó. Và chính trong những khung cảnh nầy mà ngài đã đưa ra những nhận xét có thể làm tiêu đề bắt mắt nhất của mình. Những bình luận có tính “đột phá” của ngài trên tờ La Repubblica về sự cứu độ của người vô thần (cách tình cờ, một khả năng được xác định rõ ràng bởi Vatican II khoảng 50 năm trước) đã được mở lối bởi nhận xét “nền tảng” rằng “Lòng thương xót của Thiên Chúa thì vô hạn nếu ai xin thương xót với sự thống hối và lòng chân thành.” Và trong cuộc phỏng vấn của tờ America, sự chăm sóc mục vụ cho “một người phụ nữ với hôn nhân thất bại trong quá khứ và cô cũng đã phá thai” đã được đưa ra ánh sáng về “ích lợi lớn lao của phép giải tội… trong khi đánh giá từng trường hợp và phân biệt điều gì là cái tốt nhất cho một người tìm kiếm Thiên Chúa và ân sủng.” Điều ý nghĩa là Đức Thánh Cha không chỉ chỉ trích những cha giải tội nhiệm nhặt, nhưng ngài cũng trách những người “quá dễ dải”, họ “rửa tay của mình bằng cách nói ‘Cái nầy không phải là tội’”. Bệnh viện dã chiến của Đức Phanxicô, cũng như chuyên viên y tế của nó, thì ở đó để chữa thị vết thương, không phủ nhận sự có mặt của chúng.

Đối với chúng ta, dường như Đức Phanxicô rất thích “nói về những vấn đề trong khung cảnh.” Và đối với người Kitô hữu, tất cả lời nói về tội lỗi được khoanh vùng trong một khung cảnh rất rõ ràng -rằng có một Người hiện hữu “Đấng có thể tha thứ mọi sự, tha thứ tất cả và cho tất cả mọi người, bởi vì chính Ngài đã đổi máu vô tội để lấy tất cả và lấy mọi sự.” Những lời đó được rút ra từ cuốn Anh Em Nhà Karamazov của Dostoevsky, một tác giả mà chúng ta biết Đức Thánh Cha “rất yêu thích.” Hơn thế nữa, ý tưởng căn bản nầy đã là một lời dạy dỗ được lặp đi lặp lại thuộc huấn quyền của Đức Phanxicô: “Thiên Chúa thì lớn hơn tội lỗi” (trong phỏng vấn của tờ America); “sự tha thứ của Thiên Chúa thì lớn hơn bất kỳ tội lỗi nào” (trong thư trên tờ La Repubblica). Nhưng đối với Đức Phanxicô cũng như Dostoevsky không hề có một ám chỉ nào về “ân sủng rẻ rúng” trong bất cứ ý gì của điều nầy. Đức Phanxicô đã nói một lần trong một bài giảng lễ sáng sớm: “Sự hổ thẹn là một nhân đức Kitô giáo thực sự”. Như thánh Dorothy Day (một người hâm mộ Dostoevsky khác) thích trích dẫn Anh Em Nhà Karamazov: “Tình yêu trong hành động là một điều cay nghiệt và kinh khiếp so với tình yêu trong mơ.”

Trong cuộc phỏng vấn đáng chú ý của cha Antonio Sparado, Đức Phanxicô đồng hóa mình với thánh Matthêô người thu thuế trong tranh của Caravaggio: “Đó là tôi. Tôi cảm thấy giống như ông ấy… Ở đây, đây là tôi, một kẻ tội lỗi mà Chúa đã đoái nhìn.” Đây là sự khiêm nhường đích thực, cùng một lòng khiêm nhường mà chúng ta thấy nơi một người thu thuế khác trong Phúc Âm –người thu thuế trong Đền Thờ, anh ta la lớn ‘Lạy Chúa, xin thương xót tôi, một người tội lỗi!’ (Lc 18,9-14). Chỉ có người thật sự cần đến lòng thương xót mới có thể loan báo, với niềm vui và sự khuây khỏa, rằng “Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người” (1 Tim 1,14). Đây là “Tin Mừng” –điều mà Đức Phanxicô muốn nói khi ngài nói về “sự công bố đầu tiên…sự công bố về ơn cứu độ,” điều mà “không có gì khả tín, sâu thẳm và chắc chắn hơn.” Và đây, ít nhất là một lần, thật sự là một mẫu tin đầy bất ngờ đáng được làm tiêu đề, bây giờ cũng không kém hơn gần hai ngàn năm trước.


(XT, XBVN 30-09-2013 / America Magazine)

Chủ Nhật, 22 tháng 9, 2013

Văn hoá nhặt rác


Mình đem con sang Úc từ tuổi học mẫu giáo. Những gì nó được học từ nhỏ cũng dạy cho mình được nhiều điều. Mình viết ra những suy nghĩ này về những gì mình thấy tận mắt ở nước ngoài và những gì đang thấy ở trong nước.
Khi dẫn con đi chơi ngoài phố nếu nó nhìn thấy có tý rác trên đường là nó cũng cúi xuống nhặt rồi tìm cho ra chỗ để bỏ vào thùng rác mới thôi. Thấy con biết tự giác ở nhà, mình hài lòng lắm, nhưng mà cả những khi đang đi chơi ở đâu, nó cũng cứ nhặt rác giữa đường như thế nên mình mới lấy làm lạ. Hỏi thì được nghe nó bảo là cô giáo dạy thế.
Một cậu bé 4 tuổi đang nhặt rác trên đường. Hình minh hoạ. Nguòn: 123rf.com
Trẻ con tuổi này được cô giáo dạy từ lời ăn, tiếng nói đã đành, lại còn được rèn giũa ý thức “phải nhặt rác” ở trường học, ở nhà và cả ở ngoài đường phố nữa. Trong những đợt trường cho các cháu đi chơi hoặc đi dã ngoại, đều có mục cho bọn trẻ thu rác. Các cháu được trang bị găng tay, khẩu trang, đội mũ, được phân công làm sạch từng khu vực nơi vui chơi. Có tới vài chục cháu nhỏ, nhưng khi kết thúc chuyến đi chơi ra khỏi nơi nào là nơi ấy chắc chắn không có một tý rác nào để lại.
Các cháu được dạy phải bỏ rác đúng nơi quy định, nếu không thấy thùng rác thì phải gói rác trong bọc nilông mang lên xe, hoặc xách tay đem về nhà chứ không được vứt lung tung. Ngay cả trước khi cả nhà lên đường đi đâu đó, cháu cũng nhắc người lớn đừng quên mang theo túi để đựng rác. Bây giờ ở Hà Nội và Sài Gòn, thỉnh thoảng cũng thấy tụi nhỏ học trường quốc tế và các thầy cô giáo người nước ngoài đeo găng tay đi nhặt rác trên đường phố làm cho người ta lạ lắm!
Bọn trẻ đi nhặt rác như ngày hội hoạt động ngoài trời hứng thú, thì tự nhiên sẽ thấm nhuần việc không được xả rác ra đường. Thói quen đó sẽ trở thành hành trang cho các em khi trưởng thành. Nếu trường học của chúng ta cũng rèn học sinh làm thế thì đường phố của chúng ta sẽ bớt rác đi nhiều.
Bây giờ ở Việt Nam thấy nhiều người bình thản xả rác, ngay cả những nơi thùng rác có đó, nhưng trong thùng thì rỗng không, rác vẫn đầy khắp nơi ngay xung quanh thùng! Đi đâu ở nước ta từ nông thôn đến thành thị đều thấy rác hiện diện. Những nơi xây dựng đô thị mới có vẻ tận dụng hết đất làm nhà, không để ý khu tập kết rác, hành trình thu rác và cơ sở xử lý rác. Những công trình phục vụ “rác” không làm ra tiền, mà làm tăng chi phí công trình cho nhà đầu tư nên không được quan tâm là điều dễ hiểu. Những người có trách nhiệm thì hoặc là vì xa rời thực tế, hoặc là vì quá bận bịu với những trách nhiệm tầm cao, nên không coi trọng vấn đề ở tầm…dưới đất!
Thản nhiên xả rác ra đường. Hình minh hoạ. Nguồn: moitruongxanh.org.vn
Có dịp ngồi chuyện trò với vài người kiến trúc sư được giao trách nhiệm thiết kế chợ ở địa phương, thấy họ quan tâm tính toán chia lô, khoanh chỗ làm gian hàng để bán và để cho thuê nhằm đạt lợi nhuận tối đa cho nhà thầu, không để ý dành diện tích cho việc bỏ rác, tập kết rác, chuyển rác. Bởi vậy nên khi chợ mới xây xong trông khang trang, khi đưa vào hoạt động, bà con cứ thế đổ rác ra quốc lộ! Công nhân môi trường đến giờ tan tầm mới mang xe tới dọn rác, thế là chợ mới bớt đẹp vì ai cũng ta thấy núi rác lù lù cả ngày giữa mặt tiền!
Các gia đình chúng ta lau nhà rất kỹ, guốc dép bỏ ra ngoài, nhà ai cũng chật chội nên sàn nhà là nơi sinh hoạt cho cả gia đình, lúc nào cũng phải giữ sạch sẽ. Nhưng ống cống đổ nước thải lại đưa thẳng ra lối đi chung, rác cũng quét ra đường, túi rác gia đình cũng vất ra đường, ai cũng làm thế cả nên đó là chuyện bình thường.  Hầu như ai cũng cho rằng chuyện rác không phải là việc của mình. Vì quan niệm của người dân cho đó là trách nhiệm của bên môi trường đô thị, cho nên những công nhân quét đường và dọn rác phải làm việc thật cực nhọc và luôn trong tình trạng quá tải. Dù người dọn vệ sinh đông đến mấy đi nữa cũng không làm sao kịp chuyển đi lượng rác khổng lồ đang được người người, nhà nhà tống ra đường mỗi lúc mỗi nơi. 
Phản tác dụng! Hình minh hoạ. Nguồn: nld.com.vn
Bỏ mặc việc rác cho ai đó cũng là nguợc với với trào lưu ngày nay trong cộng đồng. Ngay tại các nước châu Á, thật ấn tượng thấy cách người ta xử lý rác. Người Nhật ở nông thôn và tỉnh nhỏ dọn sạch đoạn đường phía trước nhà mình, “cất” rác vào nhà để xử lý theo hệ thống thu gom công cộng. Ở Đài Loan có nhiều loại xe chở rác, xe lớn tới đường lớn, xe nhỏ vào hẻm nhỏ, hẻm bé nữa thì có cái xe bé bằng xe lam thu rác theo giờ cố định. Người dân không bỏ rác ra đường, mà tới giờ xe qua thì mang túi rác ra “nộp”. Xe rác được sơn màu sáng vui mắt, phát tiếng nhạc êm dịu, công nhân nhặt rác mặc đồng phục chỉnh tề. Ngay cả những thành phố nhỏ trên đảo ở Philippine, xe rác không bóp còi hoặc gõ kẻng, nhưng cứ tới giờ đó là xuất hiện với tiếng chào hỏi vồn vã “hello, hello” của những công nhân theo xe rác. Họ cũng khiêng vác nặng nhọc, cũng chạy tới lui giúp cư dân bỏ rác lên xe, cũng mồ hôi mồ kê nhễ nhại trong nắng hè như ở ta, nhưng cái riêng của người Philippine là lúc nào cũng sẵn nụ cười, rồi khi xe đi lúc nào cũng “bye bye” vui vẻ.
Ở Singapore thì áp dụng lệnh cấm không cho nhập khẩu và kinh doanh buôn bán kẹo cao su, không cho khách du lịch mang kẹo cao su vào nước họ, để triệt hết đầu cung cấp, vì mục tiêu giữ cho đường phố không  bị dính bã kẹo cao su. Mới nghe thì thấy chính sách ấy có vẻ khắc nghiệt, nhưng khi thấy đường phố của họ chỗ nào cũng sạch đẹp thì mới hiểu.
Du khách không được đem chewing gum vào Singapore. Hình minh hoạ.
Nhìn lại ở mình dù là trong nhà hát, nơi quảng trường, nơi công viên hoặc đường phố ở đâu cũng dây đầy vết đen từ bã kẹo cao su dính lại. Các công trình nhà ở cũng thế, từ cầu thang  lối đi trong các tòa nhà cao cấp ra đến ngoài đường đều lem nhem nhuốm bẩn do rác, do đủ thứ gây bẩn. Để ý thấy các quán ăn nhà hàng dù có để thùng rác, nhưng khách vẫn thản nhiên vứt giấy ăn, bỏ xương, vứt rác xuống sàn. Những nhà hàng nào thấy sàn nhà càng trắng xóa rác rưởi tức là nơi ấy đông khách lắm đấy! Những làng xóm ven đường lộ và đường xe lửa mới càng khủng khiếp, vì ngoài lượng rác tại chỗ chưa biết đổ đi đâu, còn phải tiếp nhận số rác xả xuống từ xe đò và xe lửa chạy ngang địa phương ấy.
Nhìn những đống rác ở nông thôn thì thấy rõ là người dân tiện đâu bỏ đó. Phong cảnh đồng quê xinh đẹp bị nhuốm bẩn bởi những cái bịch nilông và rác rưởi mắc ngang cành cây, bay phất phơ trên ngọn cỏ, nổi lềnh bềnh nơi ao hồ và vương vãi cả ở ngoài đồng. Thế mới thấy vấn nạn của thời hiện đại tại nông thôn cũng ghê gớm chẳng kém gì nơi đô thị.  Các vị chủ khách sạn và chủ tàu bè tại các khu du lịch than rằng ngại đón khách nội địa vì người ta cứ thích đem theo đồ ăn đồ uống, dùng xong là xả rác, bỏ vỏ hộp, vỏ thùng khắp nơi, làm cho việc dọn dẹp mất nhiều công sức.
Đất nước chúng ta có nhiều cảnh thiên nhiên ngoạn mục, nhưng khách du lịch đi đến nhiều nơi không hiếm cảnh phải nín thở tìm đường thoát vì mùi hôi của xú uế, kể cả ở những nơi thiêng liêng như đình chùa và nơi chiêm bái cũng không phải là ngoại lệ.  
Một người nước ngoài “chăm chỉ” nhặt rác tại Hồ Gươm vào mỗi sáng Chủ Nhật. Nguồn: Internet.
Mình về hưu ở chung cư trong thành phố nhỏ, thấy rác nhiều quá nên mình từng đứng ra nói mọi người tham gia dọn rác tại chung cư vào ngày cuối tuần như việc làm tự nguyện. Ý tưởng này là do hồi còn bên Úc, mình thỉnh thoảng cũng tham gia với các phụ huynh làm công ích cho trường của con trong những dịp cuối tuần. Mình đã tưởng đó là việc làm hay, cứ “gương mẫu làm đầu tầu” thì thế nào cũng sẽ được mọi người ở hưởng ứng, nhưng thật không ngờ lại bị người ta mắng cho mới khổ chứ!
Những người đã không tham gia còn bảo “chung cư đã có nhân viên vệ sinh, vẽ chuyện làm gì.” Mình làm việc ấy đúng một lần, nhưng vẫn hy vọng sẽ làm nữa để giúp tạo thành nếp “công ích” cho chung cư.  Nhưng khi mình có lời với bà con hàng xóm để tiếp tục thì được nhắc nhở là phải được phép của tổ trưởng dân phố, hoặc phải thông qua chi bộ phường xóm, hoặc phải trình bày với hội phụ nữ, hoặc xin hội phụ lão vì “làm gì cũng phải có tổ chức”, chứ cứ tự nhiên đi vận động bà con thế này thế nọ là không được đâu. Nản quá, mình đành bỏ cuộc.
Kêu ca thì dễ, cơ sở hạ tầng không thể có ngay, bỏ công sức ra tự làm cũng không xong, có lẽ việc này phải bắt đầu từ khâu giáo dục ý thức con người.
Có thùng rác cũng như không. Hình minh hoạ. Nguồn: vietpress.vn
Giáo dục trẻ từ tuổi nhỏ, trong nhà trường như là giáo dục ý thức công dân là việc làm được ngay mà không phải đầu tư gì tốn kém. Chỉ cần bớt đi những nội dung giáo dục vô bổ, sẽ dành được thời gian rèn cho trẻ có thói quen tốt với bản thân, với gia đình và xã hội trong vấn đề rác. Còn hiện trạng thì cơ sở hạ tầng thu gom rác ở khắp nơi đều rất thiếu, việc giáo dục đã yếu lại nặng về hình thức, không chú trọng tới những yêu cầu thiết yếu của đời sống.
Hành động xả rác thiếu suy nghĩ của con người đang xảy ra ở tất cả mọi nơi, thậm chí mình thấy các vị cha mẹ còn xui con đổ rác ra đường, quẳng rác đi đâu cũng được, kể cả vứt sang nhà hàng xóm, thì khó hi vọng chúng ta có môi trường vệ sinh sạch sẽ trong tương lai. Bây giờ đang “bó tay” thế này thì chúng ta còn phải sống chung với rác lâu đấy. 
Nỗi khổ chẳng của riêng ai, chúng ta không những đang làm ô nhiễm môi trường nơi mình đang sống, mà cả khi một số người Việt ra nước ngoài cũng mang theo thói quen vứt rác lung tung, trở thành hình ảnh người Việt xấu xí trong mắt người ta, thì thật là xấu hổ quá.
Kim Chi

Thứ Hai, 15 tháng 7, 2013

Sau học vị tiến sĩ, hãy học làm người

 HỌC LÀM NGƯỜI

Đại sư Tinh Vân có một người đệ tử, sau khi tốt nghiệp đại học liền học thạc sĩ, rồi lại học tiến sĩ, sau nhiều năm đèn sách cuối cùng cũng đã hoàn thành luận án tiến sĩ nên vô cùng mừng vui. 
Một hôm người đệ tử này trở về, thưa với Đại sư: Thưa thầy nay con đã có học vị tiến sĩ rồi, sau này con phải học những gì nữa? 
Ngài Tinh Vân bảo: Học làm người, học làm người là việc học suốt đời chẳng thể nào tốt nghiệp được.
1. Thứ nhất, “học nhận lỗi”. Con người thường không chịu nhận lỗi lầm về mình, tất cả mọi lỗi lầm đều đổ cho người khác, cho rằng bản thân mình mới đúng, thật ra không biết nhận lỗi chính là một lỗi lầm lớn.

Thầy chùa,thây tu,khoa hoc và cuộc sống,ảnh đẹp,hình hot,văn học,âm nhac,giải trí,truyện ngắn,truyện cười
2. Thứ hai, “học nhu hòa”. Răng người ta rất cứng, lưỡi người ta rất mềm, đi hết cuộc đời răng người ta lại rụng hết, nhưng lưỡi thì vẫn còn nguyên, cho nên cần phải học mềm mỏng, nhu hòa thì đời con người ta mới có thể tồn tại lâu dài được. Tâm nhu hòa là một tiến bộ lớn trong việc tu tập.
3. Thứ ba, ” học nhẫn nhục”. Thế gian này nếu nhẫn được một chút thì sóng yên bể lặng, lùi một bước biển rộng trời cao. Nhẫn, vạn sự được tiêu trừ. Nhẫn chính là biết xử sự, biết hóa giải, dùng trí tuệ và năng lực làm cho chuyện lớn hóa thành nhỏ, chuyện nhỏ hóa thành không.

4. Thứ tư, “học thấu hiểu”. Thiếu thấu hiểu nhau sẽ nảy sinh những thị phi, tranh chấp, hiểu lầm. Mọi người nên thấu hiểu thông cảm lẫn nhau, để giúp đỡ lẫn nhau. Không thông cảm lẫn nhau làm sao có thể hòa bình được?
5.  Thứ năm, “học buông bỏ”. Cuộc đời như một chiếc vali, lúc cần thì xách lên, không cần dùng nữa thì đặt nó xuống, lúc cần đặt xuống thì lại không đặt xuống, giống như kéo một túi hành lý nặng nề không tự tại chút nào cả. Năm tháng cuộc đời có hạn, nhận lỗi, tôn trọng, bao dung, mới làm cho người ta chấp nhận mình, biết buông bỏ thì mới tự tại được!
 
6. Thứ sáu, “học cảm động”. Nhìn thấy ưu điểm của người khác chúng ta nên hoan hỷ, nhìn thấy điều không may của người khác nên cảm động. Cảm động là tâm thương yêu, tâm Bồ tát, tâm Bồ đề; trong cuộc đời mấy mươi năm của tôi, có rất nhiều câu chuyện, nhiều lời nói làm tôi cảm động, cho nên tôi cũng rất nỗ lực tìm cách làm cho người khác cảm động.
7.  Thứ bảy, “học sinh tồn”. Để sinh tồn, chúng ta phải duy trì bảo vệ thân thể khỏe mạnh; thân thể khỏe mạnh không những có lợi cho bản thân, mà còn làm cho gia đình, bạn bè yên tâm, cho nên đó cũng là hành vi hiếu đễ với người thân.

Thứ Bảy, 11 tháng 5, 2013

Hàn mặc Tử: Thiên thần bị đầy đọa



09:51 | 07/05/2013
Quê Đồng Hới - Quảng Bình nhưng thi tài Hàn Mặc Tử chói sáng đỉnh điểm khi về sống ở Quy Nhơn - Bình Định những năm cuối cuộc đời ngắn ngủi. Có một thiên cơ giữa đất và người...
Hàn mặc Tử: Thiên thần bị đầy đọa
Mộ Hàn mặc Tử tại Ghềnh Ráng - Quy Nhơn
1. Từ tuổi học trò ở Quy Nhơn những năm sáu mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã rất ngưỡng mộ thơ Hàn Mặc Tử và xem vết tích của ông để lại ở đất này là niềm tự hào và quyến rũ: Ngôi nhà tuổi thơ số 20 đường Khải Định (nay là ngã tư Lê Lợi - Nguyễn Du); mái trường College ông dệt mộng đèn sách; thư viện nơi ông bươn bả với kiến thức kim cổ đông tây; bãi biển trăng và cát vàng mộng mị; những con đường rụt rè, những tình yêu; căn phòng thơ và bạn bè; xóm Tấn nơi lánh bệnh; nhà thương phong điều trị bệnh và ngôi mộ trên đồi Ghềnh Ráng…

Lời bài hát "đường lên dốc đá nửa đêm trăng tà…" đã ru chúng tôi vào một Quy Nhơn hoang sơ đẹp và buồn của mối tình thi sĩ và cái dốc Mộng Cầm đã trở thành địa danh nôn nao bổi hổi. Tôi có duyên may được gặp gỡ và trò chuyện với ba trong bốn nhà thơ lớn của nhóm "Bàn Thành tứ hữu" là Quách Tấn, Yến Lan và Chế Lan Viên. Thông qua họ, tôi hiểu thêm về Hàn Mặc Tử trong lòng những người bạn của ông. Bây giờ trong cõi xa kia, bốn người bạn thân ở thành Đồ Bàn đã gặp lại nhau nơi cõi khác, chẳng chỉ "nửa đêm trăng tà" mà còn bất cứ lúc nào, như ngày xưa trẻ trung ở Quy Nhơn, trong những lần tìm đến nhau, thăng hoa trong thơ ca và tình bạn. Hàn Mặc Tử sinh ngày 12 tháng Tám âm, nhằm ngày 22/9/1912, mùa trăng, Chúa nhật, ngày của Chúa,…
2. Hàn Mặc Tử không phải một tông đồ truyền giáo mà là "loài thi sĩ" đã xác lập định mệnh thơ với nguồn mạch của một thế giới tân kỳ, không phải đi rao giảng đức tin tôn giáo mà quán chiếu trời thơ như một sứ điệp của tình yêu cuộc sống hoàn vũ. Không phải là linh mục để thực hiện nghi thức bí tích, nhưng Hàn Mặc Tử vẫn là một kẻ chăn chiên chăn dắt tình yêu và gieo vào ân sủng thơ ca một mùi dầu thánh.

Tôi đã lặn lội trong âm thanh tuyệt diệu và mầu nhiệm những bài ca của Sa-lô-môn trong Kinh Thánh,  tìm một nguồn gốc của sự vui vẻ thanh sạch và cao quý những nam nữ rất thanh khiết "như con hoàng dương hay là như con nai con ở trên các núi thuốc thơm" để quay về với đời và thơ Hàn Mặc Tử. Đó là một tình yêu tràn trề chảy qua vườn nho chín mọng, hoa tường vi trắng hồng, lai láng dưới răng, lưỡi, bầu vú, trong ngũ quan líu lo những mật ong và sữa. Khi người ta yêu nhau, có thể lắng nghe mọi âm thanh ngây ngất, nhìn mọi chi tiết đắm đuối của thân tâm trong bản giao hưởng thế giới tạo vật muôn trùng.
Hàn Mặc Tử, dưới góc độ nào đó, ở đầu thế kỷ XX phân thân trong hoàng đế Sa-lô-môn, trong kẻ lương nhân, và trong cả cô gái đồng trinh mà mấy nghìn năm rồi, thường hằng trong thánh ca bất tử: "Nguyện người hôn tôi bằng cái hôn của miệng người. Vì ái tình chàng ngon hơn rượu.  Danh chàng thơm như dầu đổ ra; Bởi cớ ấy các gái đồng trinh yêu mến chàng. Hãy kéo tôi; chúng tôi sẽ chạy theo chàng, Vua đã dẫn tôi vào phòng Ngài. Chúng tôi sẽ vui mừng và khoái lạc nơi chàng. Các gái đồng trinh yêu mến chàng cách chánh trực". Và bắt đầu một hành trình sáng tạo, Hàn đã lấy máu làm mực, lấy trăng làm giấy, kẻ lên đó những vần thơ khai phóng làm ngây ngất những tinh cầu: "Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt/ Như đón từ xa một ý thơ".

Hàn Mặc Tử bày biện cuộc mình như một thánh lễ, giấy bút vào hành trình: "Mực lùa khí vị vô hồn chữ/ Văn hút hào quang ở miệng ra". Dù khi hối hả (như một cái máy vi tính tiên tri mà thời Hàn chưa có): "Thơ chưa ra khỏi bút/ Giọt mực đã rụng rồi/ Lòng tôi chưa kịp nói/ Giấy đã toát mồ hôi" hay trầm tĩnh thức nhận "Người thơ chưa thấy ra đời nhỉ/ Trinh bạch ai chôn tận đáy mồ", và niềm sám hối "Đời không có ngọc trong pho sách/ E chết khôi nguyên ở Phượng Trì" luôn luôn là nỗi ám ảnh để nhà thơ đi tìm châu báu trong trần gian: "Trái cây bằng ngọc vỏ bằng gấm/ Còn mặt trời kia tợ khối vàng". Thánh lễ của Hàn, từ cuộc khai tâm "Thuở ấy càn khôn mới dựng nên/ Mùa thơ chưa gặt tốt tươi lên/ Người thơ phong vận như thơ ấy/ Nào đã ra đời ngọc biết tên", qua rửa tội "Xin thứ tha những câu thơ tội lỗi/ Của bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng", đến cuộc hòa minh: "Anh đứng cách xa hàng thế giới/ Lặng nhìn trong mộng miệng em cười/ Em cười anh cũng cười theo dọi/ Để nhắn hồn em đã tới nơi", rồi ơn gọi: "Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu/ Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu/ Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang" cho tới tận cùng "Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết/ Trải niềm đau trên trang giấy mong manh/ Đừng nắm lại nguồn thơ ta đang siết/ Cả lòng ta trong mớ chữ rung rinh" là thánh lễ của một kẻ tuẫn đạo để cứu rỗi. Điều này thuộc về định mệnh. Bầy chiên ngôn ngữ đã được quán triệt trong thể xác và linh hồn người thơ, và người thơ lộn trái thịt da cốt tủy ra trình bày dưới ánh sáng, theo một nhu cầu nội tại chân thực và thành kính. Hàn Mặc Tử đã tự thắp những vầng trăng trên thánh lễ, từ y phục: "Áo ta rách rưới trời không vá/ Suốt bốn mùa trăng mặc vải trăng" đến lương thực: "Trời hỡi làm sao cho khỏi đói/ Gió trăng có sẵn làm sao ăn" đến tiện nghi: "Tôi lượm lá trăng làm chiếu trải" và trải nghiệm "Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy/ Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra" nhưng cuối cùng vẫn chơi trên trăng với mục đích: "Để nghe tiếng nhạc Nghê Thường thổi/ Để hớp tinh anh của Nguyệt Cầu/ Và để thoát ly ngoài thế giới…". Tự gọi tên "Máu cuồng và Hồn điên", Hàn Mặc Tử đã trải qua những cơn đau đớn giày vò về thể xác lẫn tinh thần, muốn thoát hồn ra ngoài xác thịt mà "Đo từ ngọn cỏ tới cung trăng", một cự ly quán thế cả và thiên hạ để "Ràng rịt mãi cho tới ngày tận thế". Đó là cuộc lữ hành lý tưởng của "loài thi sĩ" để tìm một nụ cười an lạc trong niềm đau cùng cực của một hình hài.

3. Nỗi cô độc của một thiên tài thơ ca là nỗi cô độc trong sum vầy, như đỉnh núi đột khởi giữa điệp trùng gò đống. Đời Hàn Mặc Tử luôn luôn hiện hữu song hành với thơ Hàn Mặc Tử, trong tình yêu của mọi người dành cho Hàn Mặc Tử suốt trăm năm nay. Và dù chưa có một thống kê xã hội học chính thức, tôi vẫn nhận thấy mộ Hàn Mặc Tử trở thành một trong những địa điểm hành hương được người mến mộ viếng thăm nhiều nhất trong số các nhà thơ Việt! Tôi đã đọc trong nước mắt của những vần thơ do khách đa tình sau mấy thế hệ viếng Hàn, nghe rào rạt sức sống của Hàn trong nguồn cảm hứng tinh khôi của họ, như dành cho người lương nhân trong Nhã Ca: "Vừa sớm mai, chúng ta sẽ thức dậy, Ði đến vườn nho, đặng xem thể nho có nứt đọt, Hoa có trổ, thạch lựu có nở bông chăng: Tại đó tôi sẽ tỏ ái tình tôi cho chàng. Trái phong già xông mùi thơm nó; Và tại cửa chúng ta có những thứ trái ngon mới và cũ; Hỡi lương nhân tôi, tôi đã để dành trái ấy cho chàng!".
Chúng ta đều biết, ở Bình Định có vị anh hùng kiệt xuất Quang Trung - Nguyễn Huệ và cuộc đời và sự nghiệp của ông đã trình bày thánh tích của một thiên tài. Thiên tài quân sự bách chiến bách thắng đã đưa một người nông dân lên ngôi hoàng đế, đưa những tấc sắt thành lưỡi gươm thiêng đại định thiên hạ. Tất nhiên, không ai đi so sánh 39 năm hiển hách huân nghiệp của một người bước lên ngai vàng với 28 năm của một dân đen dù dân đen ấy là một thiên tài thi ca mang tên Hàn Mặc Tử. Tuy nhiên, ở góc độ nào đó, nhà thơ đồng nghĩa với anh hùng văn hóa. Ai dám bảo đạo quân chữ nghĩa của Hàn Mặc Tử không phải được sinh thành bởi hương thơm và ánh sáng, không có khả năng chinh phục nụ cười nước mắt của thiên hạ trong nhiều thế kỷ tiếp theo.

Sự ngắn ngủi của đời họ là dồn nén của bùng nổ và nguồn cảm hứng thiên hạ dành cho họ sẽ không bao giờ vơi cạn. Thửa ruộng Hàn Mặc Tử, tòa nhà Hàn Mặc Tử, ngôi đền Hàn Mặc Tử sẽ làm cuộc giãi bày cho đến muôn sau, trong cuộc cứu rỗi thi ca thiên khởi, uyên nguyên, xa lạ với cuộc ma-ra-tông rượt đuổi trường phái, chủ thuyết, trào lưu, nắm chiếc đuôi khôn ngoan của cỗ xe ngựa triết học kinh viện. Cái đời thơ kỳ lạ ấy đã thực hiện sứ mệnh như một thiên thần bị đày đọa, đã đau khổ và yêu thương đến cùng cực khi trót một lần hẹn thề cùng cõi nhân gian

Theo  Nguyễn Thanh Mừng - VNCA

Philipphê Bỉnh - Nhà văn hóa quốc ngữ đầu tiên, bị lãng quên



16:15 | 06/05/2013
HOÀNG HƯƠNG TRANG 

Chữ Quốc Ngữ (Q.N) viết theo dạng 24 chữ cái ABC xuất xứ từ các Thầy Dòng truyền giáo Tây Phương mang vào nước ta, cho đến nay gọi là được phổ biến trên dưới trăm năm, gói gọn vào thế kỷ 20.
Philipphê Bỉnh - Nhà văn hóa quốc ngữ đầu tiên, bị lãng quên
Hai trong số những trang sách của Philipphê Bỉnh
Trước đó nữa, phổ biến vẫn chỉ là chữ Hán, chữ Nôm, tiếp đến là chữ Pháp rồi mới đến Q.N. Các cụ xưa, chẳng mấy ai đưa ngôn ngữ bình dân đại chúng vào tác phẩm, vì thế ngày nay, những nhà ngôn ngữ học, hay nghiên cứu về văn hóa dân gian, gặp không ít khó khăn. Đa số sách chữ Nôm là khá gần ta nhất, thì cũng toàn văn vần, thơ, phũ, biền ngẫu, thoát thai từ Hán văn, văn Hán và Nôm đều quá sơ lược, đơn gọn, không phản ảnh được đúng ngôn ngữ bình dân, mà qua thời gian, dòng ngôn ngữ ấy đã biến thiên rất nhiều.

Thuở ấy, chưa phải là xưa lắm, đến cái chữ Nôm còn bị dè bỉu là “mách qué”, đã học là phải học chữ Hán mới đúng “cửa Khổng sân Trình”, huống hồ cái chữ Q.N, bị coi là thứ chữ “Bò ngang như cua” của Tây Dương đem lại. Do đó, chữ Q.N đã được khai sinh và hoàn chỉnh khá lâu, từ thời Trịnh Nguyễn, nhưng chỉ dùng cho các vị Cố Đạo, thương nhân nước ngoài, mặc dầu đã có tự vị hẳn hoi, mà vẫn còn xa lạ với người đi học. Nề nếp và ổn định thì chỉ trên dưới trăm năm thôi, giai đoạn đầu cũng chỉ học thuần chữ Pháp, mãi mới chuyển Q.N được. Nhưng từ khi phổ biến bộ chữ Q.N là ta gặp ngay mọi sự dễ dàng, trong khi đó, những nước dùng chữ tượng hình như Tàu, Nhật, Hàn, và các nước theo chữ Á Rập rất khó hội nhập với các nước có bộ chữ cái La Tinh. Ta rất may mắn, tuy rằng mấy nghìn năm lệ thuộc Phương Bắc, thế mà khi có chữ Q.N, ta nhanh chóng, dễ dàng vượt thoát ra khỏi cái vòng đai khổ ải của thứ chữ tượng hình như vẽ bùa ấy.

Trước giờ các nhà nghiên cứu hầu như đồng ý với lập luận rằng, chữ Q.N được khai sinh bởi cha đẻ A. De Rhodes, Béhaine hoặc một vài vị cố đạo đồng thời, và cũng chỉ nghĩ rằng, chỉ có các vị cố đạo nước ngoài như thế thôi, thật là thiếu sót và oan uổng! Thật ra ta đã có một vị Thầy Cả thuần chất, sinh năm 1759 đến 17 tuổi vào tu ở nhà Dòng, rồi đi chu du nhiều nước, ông viết nhiều sách, soạn và san định nhiều bộ tự điển đầu tiên cho người Việt dùng. Bằng chữ Q.N chính hiệu, mà ngày nay đọc nó vẫn còn trôi chảy, vẫn hiểu như ngôn ngữ ta dùng hiện nay. Ông viết bằng thứ văn xuôi như nói chuyện, nói sao viết vậy. Chuyện ông viết vừa nhật ký, ghi chép biên niên, hoạt động của Dòng Chúa, của nhà thờ, của Giáo Hội trong và ngoài nước, sinh hoạt ngày thường của xã hội ta, xã hội Tây Phương, các nước ông đã đến, các nghề nghiệp lúc bấy giờ, cách ăn uống, ăn mặc, tế lễ, tang ma, ông quan sát rồi vẽ ra những vật dụng ta chưa làm được, như cái bàn in để in tranh tượng thờ, cái bàn nghiền bột thô sơ để lấy bột làm bánh thánh, cái máy dệt cổ sơ của tây phương, ông ghi chép, vẽ lại tỉ mỉ mọi sinh hoạt xã hội, so sánh cách sống văn minh hơn, có khoa học hơn, vệ sinh hơn của xã hội tây phương với cách sống còn lạc hậu, thiếu vệ sinh, thiếu khoa học của dân ta. Từ cách nhà thoáng mát, sơn quét đẹp mắt, giường nệm trắng tinh, phòng ngủ phòng ăn tươm tất, bữa ăn nhiều chất đạm, nuôi con sạch sẽ không mớm cơm nhai như các bà mẹ ta thời ấy... tất cả được viết lại bằng một thứ chữ Q.N, văn nói bình dân, đầy đủ, lưu loát, dễ hiểu.

Toàn bộ sách của ông, có cuốn đã in, có cuốn viết tay, kể cả những bộ tự vị mà ta biết của các vị cố đạo, những bộ được đánh giá là “Tối cổ”.

Ông, một người Việt thuần chất, viết cho người Việt đọc, chúng ta không ai biết ông, hầu như chưa ai nhắc tới ông bao giờ, ông đã bị lãng quên!

May thay, một số sách của ông còn lưu giữ kỹ càng ở thư viện Tòa thánh Vatican, được cầm trên tay những trang sách viết nắn nót của ông, thật bồi hồi xúc động, trên 200 năm trước đã có một con người Việt Nam như thế. Ông là Thầy Cả Philipphê Bỉnh, ông không để lại cho chúng ta một hình vẽ, một pho tượng nào cả, nhưng chân dung ông thì rất rõ nét. Ông là người Việt Nam viết văn Q.N đầu tiên, khác hẳn với tính cách những nhà truyền giáo nước ngoài đồng thời với ông. Tiếc là ông đã không ghi họ gì, chỉ ghi tên Thánh trước tên thật, ông người xứ Hải Dương, phủ Hạ Hoàng, huyện Vĩnh Lại, xã Ngãi An, thôn Địa Linh, sinh năm 1759, 17 tuổi vào Dòng tu, rồi đi chu du nhiều nước theo các Dòng thánh, ông đã sống ở nhiều nước tây phương và Á Châu, ông không nhắc gì đến quãng đời thơ ấu, cha mẹ, anh em, do đâu mà ông đi tu, chỉ nói sơ lược đến quê quán. Ông đi tu và học ở trường Kẻ Vĩnh lúc 17 tuổi (1775), đến 1793 ông được thụ phong linh mục, cuộc đời học vấn và tu tập gần ngót 20 năm ông ghi đầy đủ những ngày ông được thụ chức trong giáo hội. Có lẽ ông là người có học vấn và học đạo xuất sắc hơn người, nên vừa thụ phong linhmục xong, nhận vật kỷ niệm, khao vọng anh em nhà dòng, là được trao phó ngay chức vụ đảm nhiệm rất quan trọng, chức giữ việc trong giáo hội, tức quản lý tài sản tiền bạc của giáo hội, công việc ấy rất nặng nề, trách nhiệm, phải rất xuất sắc, uy tín mới được giao. Ông tự ví: “Thầy cả giữ việc Vít vồ thì chẳng khác gì như quan Tọa triều” (Vít vồ tức quản lý, ngày nay không còn thấy trong chữ Q.N nữa). Với chức vụ ấy, ông có cơ hội đi lại nhiều lần giữa Việt Nam - Macao - Goa (một xứ ở Ấn Độ) rồi sang Trung Hoa (ông ghi là nước Đại Minh) và nhiều nước khác, để lo việc đạo, uy tín ông ngày càng tăng.

Lúc bấy giờ, phát sinh ra việc tranh chấp cực kỳ nặng nề giữa hai phe truyền giáo là dòng Đa Minh và dòng Tên, có áp lực chính trị quốc tế xen vào, tòa thánh La Mã lại dường như nghiêng về phía dòng Đa Minh mà bỏ rơi dòng Tên, ông đã cùng một phái đoàn thầy giảng Việt Nam sang tận Bồ Đào Nha yết kiến nhà vua, nhờ can thiệp với Tòa Thánh, nhưng không được giúp đỡ mà còn bị lưu vong ở Lisbone hơn 30 năm rồi chết ở đấy. Trong hơn 30 năm này ông dùng để trước tác, biên soạn tự vị, sao chép sách vở, viết nhật ký với ý đồ gởi về quê hương toàn bộ tác phẩm của mình, ông viết công phu, tỉ mỉ, không có ý làm văn chương, nhưng là biên soạn, ghi chép những việc thật, người thật ở xứ người, tả đầy đủ, rõ ràng xã hội Tây phương bấy giờ, và so sánh với xã hội ta, mong muôn lúc trở về sẽ truyền bá, cải tiến cho bằng người. Tiếc thay, ông đã không làm được vì đã chết ở đất nước người sau hơn 30 năm lưu vong vì sự phân chia hai dòng truyền giáo mà ông đã bất lực không kết hợp lại được.

Những sách của ông, theo di chúc, được gởi về quê hương song khi ấy dòng Đa Minh và dòng Tên còn đang kháng nhau kịch liệt, đốt cả nhà thờ của nhau, bắt giáo sĩ của nhau nhốt cả vào chuồng trâu bò, kể cả việc đổ máu, việc chia rẽ diễn ra khắp các nước có giáo hội của hai dòng. Riêng nước ta cũng nhằm vào thời các vua Nguyễn bài đạo Ki Tô ráo riết, nên những sách ông gởi về không biết lưu lạc phương nào? Chút may mắn còn lại là thư viện Tòa thánh Vatican còn lưu của ông một số ít, không tới một phần hai mươi số sách của ông (so với bản kê khai sách trong thư viện riêng ông, chính tay ông viết), may thay, trong đó còn lại cuốn quan trọng hơn cả, cuốn viết tay, nhan đề “Sách sổ sang chép các việc” là cuốn có cái nhìn tổng quan, bao quát, của sự nghiệp trước tác và cả thời đại ông sống. Cũng từ cuốn này ta có thể so sánh chữ Q.N buổi bình minh ấy với hiện tại, cách nhau ngoài 200 năm đã có những biến thiên gì?

Xuyên suốt cuộc đời ông đã sống, làm việc, đọc ông dù còn lại không nhiều, chân dung ông như hiển hiện trước mắt, một vị thầy cả trầm tư, đạo mạo, thông thái, cần cù nhẫn nại.

Chỉ riêng một cuốn sách ít ỏi mà nay ta còn lại trong tay, dày trên 600 trang, do chính ông viết tay nắn nót cẩn thận, nếu có được tất cả sách của ông đã viết thì chúng ta đã có thể có cả một kho báu văn học Q.N buổi đầu đồ sộ đến nhường nào?

Sự nghiệp của Philipphê Bỉnh rất lớn lao, ông là một tài năng đa dạng, về ngôn ngữ học, xã hội học, nhà văn và họa sĩ. Riêng trên lĩnh vực từ điển, ta sẽ tìm thấy những gút mắc về những bộ từ điển được gọi là “tối cổ” mà lâu nay coi như đã thất lạc không còn tìm ra manh mối, thì nay những mấu chốt ấy có thể thấy được trong sách của Philipphê Bỉnh, những cuốn từ điển “Tôi tối cổ”, cổ hơn cả những cuốn của A.de Rhodes in năm 1651, của Pigneau de Béhaine đã bị cháy ởCà Mau đầu thế kỷ 19, hay cuốn của Tarberd tu bổ lại cuốn bị cháy. Hai cuốn “Tôi tối cổ” là hai cuốn đã được nhắc đến trong bài tựa của cuốn tự vị cổ nhất in 1651 của de Rhodes, đó là hai cuốn của Gaspas D’amaral, và Antonio Barbosa mà tưởng chừng không bao giờ còn cơ hội thấy bóng dáng. Việc vô cùng quan trọng này, trong phạm vi một bài viết ngắn không thể nói hết được, phải chờ những nhà nghiên cứu văn học, ngôn ngữ, của ta sẽ làm việc đầy đủ hơn, để đưa ra ánh sáng, vì đó là những bộ sách quý giá hiếm hoi của chữ Q.N trong buổi đầu và là cái mốc của lịch sử văn học Quốc Ngữ. Có thể nói Philipphê Bỉnh là nhà văn viết bằng Q.N hoàn chỉnh nhất và đầu tiên của nước ta. Ông biết nhiều thứ tiếng, nhất là Pháp và La Tinh, nhưng không viết tiếng nước ngoài mà người chỉ chăm chú viết tiếng Việt cho người Việt đọc, lòng yêu dân tộc của ông rất cao. Ở cách chúng ta ngoài 200 năm đã có một tấm lòng, một khối óc, một tài năng như thế, đã đóng góp trí tuệ mình vào gia tài văn hóa dân tộc, thật đáng cho chúng ta tôn vinh, ngưỡng mộ và tri ân.

Cũng từ cuốn sách này mà ta có thể so sánh chữ Quốc Ngữ buổi đầu với hiện tại, cách nhau trên 200 năm mà đã có những biến thiên gì? Ví dụ:

Nay ta viết và đọc: Đức Chúa Trời, Cũng như, Cùng nhau, Quản lý, Hạ Hoàng, Huyện, Thôn, Dòng Chúa, Thầy Dòng, Song le, Trước khi,...

Thì lúc bấy giờ, Philipphê Bỉnh viết: Đức Chúa Blời, Cŭ~ như, Cŭ` nhau, Vít vồ, Hạ Hàǒù, Huện, Tôn, Dàõ Chúa, Thầy Dàõ, Saǒ le, Trc' khi...

Ông lại còn dùng rất nhiều chữ viết tắt như: Rg` (rằng) Ng` (người) Chg’ (chẳng)... riêng chữ Vít Vồ (tổng quản, quản lý) cho đến nay không còn dấu vết trong chữ viết và ngôn ngữ của ta, chỉ phỏng đoán theo ý của toàn câu thì nó có nghĩa là một chức vụ quan trọng như tổng quản, quản lý, trông coi tiền bạc, tài sản của giáo hội, chứ không thể tìm đâu ra chữ “Vít vồ” tương đương với chữ gì hiện nay.

Cũng cần cảm ơn người đã có công khám phá ra kho tàng sách vở của Philipphê Bỉnh là linh mục Thanh Lãng, một nhà giáo, nhà nghiên cứu văn học, Chủ tịch Trung tâm Văn Bút VN trước 1975, ông đã bỏ ra nhiều công sức và tiền bạc chụp lại phim toàn bộ bộ sách của Thầy Cả Bỉnh còn lưu lại ở thư viện Tòa thánh Vatican, mục “Tài liệu Bắc Kỳ”, mang số Borghese Tonchino 3, kho tàng ấy đã chìm vào lãng quên hơn 200 năm, chúng ta không thể lại để tiếp tục lãng quên, sẽ có tội với tiền nhân và nền văn hiến nước nhà.

Bài viết ngắn này, chúng tôi tha thiết mong liên Bộ Giáo dục - Đào tạo và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu, truy tầm, những tác phẩm vô giá về văn học Quốc Ngữ này, hiện còn lưu giữ ở thư viện Tòa thánh Vatican, nước Ý.

H.H.T
(SDB8/3-13)

Thứ Tư, 1 tháng 5, 2013

Chết Để Con Được Học: Khi Cái Chết Là Lựa Chọn Cuối Cùng!



29TH. 4
Anh Bảo và các con đau xót trưc cái chết chị Nhân
Huỳnh Khánh Vy, Blogdanlambao - 4.2013:  Sáng nay, tình cờ đọc một bài trên báo Pháp luật có tựa “Chết để con được học”. Bài báo kể về một phụ nữ tên là Nguyễn Thị Mỹ Nhân, 48 tuổi ở tạiTP Cà Mau. Do hoàn cảnh gia đình chị quá khó khăn và quẫn bách cùng với tình trạng đau ốm của bản thân đã khiến chị phải tìm đến cái chết trong tột cùng tuyệt vọng, bỏ lại chồng và ba đứa con chỉ với mong muốn là các con chị được tiếp tục đi học. Chị chết đi sẽ bớt đi khoản tiền thuốc 140.000 đồng/ ngày để lo cho con có tiền tiếp tục việc học.

Sau khi đọc xong bài báo, tôi cảm thấy lòng mình nặng trĩu và một cảm giác tủi thân ghê gớm dâng nghẹn trong cổ. Cũng là một người phụ nữ, một người mẹ, tôi có thể hiểu và cảm nhận tình thương yêu vô bờ bến mà chị Nhân dành cho các con mình. Chị sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình để con cái được học hành đến nơi đến chốn. Chị gợi lên trong tôi hình ảnh tảo tần sớm khuya và đức hy sinh cao cả của người phụ nữ Việt Nam xưa nay. 
Nhưng ở đây, sự hy sinh của người mẹ Việt Nam không còn là bỏ đi những niềm vui trong cuộc sống, bỏ đi những giây phút thảnh thơi và tuổi xuân để chăm lo cho cái, mà sự hy sinh đó là cả một mạng sống. Thiết tưởng, bằng cái chết tức tưởi ấy, liệu sự hy sinh này của chị có xứng đáng hay không? Nếu chị được sống trong một xã hội khác đi liệu chị có phải chết một cách oan uổng vậy không?

Ai cũng biết sinh mạng con người là vô cùng quý giá. Đến một cụ già mà vẫn còn muốn sống huống chi là chị một người phụ nữ chưa đầy 50 tuổi. Người ở quê tôi có câu nói, tuy nghe có thô tục thật, nhưng nó thể hiện rõ ham muốn được sống của con người : “con chó ăn … còn muốn sống huống chi con người”. Chị cũng vậy, chị cũng muốn được sống lắm chứ, sống để không uổng phí cuộc sống quý giá mà cha mẹ ban cho, sống để cùng chồng chia sẻ buồn vui“duyên ba sinh”, sống để nhìn thấy các con trưởng thành… Thế mà, chị không còn cách nào khác ngoài việc chọn lấy cái chết để “lấy ít tiền phúng điếu” cho chồng con sau cái chết của mình.

Phải đến tận cùng tuyệt vọng, phải là khi con người người ta bị dồn vào ngõ cụt không có lối thoát thì mới nghĩ đến cách này. Thật buồn đau cho số phận của chị! Nhưng nhìn lại, nỗi buồn tủi cùng cực đó đâu phải chỉ của một mình chị, bởi nó là vận mệnh chung của tất cả những người đang bị gạt ra bên lề xã hội Việt Nam hôm nay. Tại sao thân phân con người trong xã hội Việt Nam này lại rẻ rúng như vậy? Hỏi cũng chính là đã trả lời.

Dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, chúng tôi đã được nhồi nhét vào đầu một mớ những văn chương thi phú “cách mạng”, nhưng cũng một số những tác phẩm văn học hiện thực phê phán thời Pháp mà các thầy cô đã cố nhuộm cho “đỏ” lên. Hình ảnh chị Dậu hiện lên trong tác phẩm“Tắt đèn” của Ngô Tất Tố được hiểu như là một biểu tượng đau đớn của một dân tộc vong quốc. Người dân nước Nam phải chịu đựng những chà đạp bất công, bất nhân dưới thời thực dân đã đành. Đằng này, chị Nhân đang sống trong một xã hội hiện đại của thế kỷ 21, dưới một chính quyền luôn rêu rao là “của dân, do dân và vì dân” mà chị lại phải hứng chịu một bi kịch như vậy. Thật quá mỉa mai!

Tôi tin rằng trường hợp của chị không phải cá biệt, nhiều gia đình, nhiều số phận cũng rơi vào hoàn cảnh như chị. Chỉ có điều, nó không được đưa lên báo nên không ai biết mà thôi. Vậy thì, đất nước này có thực sự được “giải phóng”như những người cộng sản Việt Nam vẫn tự mãn hay không? Hay thực ra nó chỉ là sự thay thế một chính quyền thực dân thời Pháp và một chế độ dân chủ non trẻ thời Việt Nam cộng hòa thành một nhà nước độc tài cộng sản tàn ác không kém nếu không muốn nói là hơn, những tên thực dân?!

Quyền được thụ lãnh cơ hội giáo dục và nghề nghiệp là quyền cơ bản bất khả xâm phạm của con người. Nó đã được quy định trong Hiến pháp Việt Nam và chính vì có những quyền như thế mà con người được định nghĩa là “con người”. Thế nhưng, dù đang sống trên chính quê hương“độc lập tự do” của mình, chị đã phải dùng mạng sống để đánh đổi cái sự học cho con cái. Nếu việc này không được chính một tờ báo của Nhà nước này đăng tin mà do ai đó trong chúng ta đưa tin lên, thì tôi nghĩ chắc nhiều người không tin và còn cho đó là bia đặt, là nói xấu chế độ.

Qua chuyện này, ta càng thấy rõ hơn bộ mặt thật của chế độ độc tài mà người dân Việt Nam đang phải sống và chịu đựng. Thật xót xa cho số phận những người phụ nữ Việt Nam nói riêng và tất cả con dân Việt Nam nói chung khi phải sống trong cam chịu và khổ đau mà phải mang ơn công “giải phóng" của “Bác Hồ và Đảng”.

Là một bà mẹ trẻ, tôi thật sự lo lắng cho tương lai của con mình. Rồi đây, tương lai của con tôi sẽ đi về đâu khi phải sống dưới một chế độ độc tài với đầy rẫy bất công và quyền con người bị chà đạp như vậy? Nó sẽ biết ơn tôi hay trách tôi đã mang nó vào cuộc đời này, khi từ lúc nó còn chưa lọt lòng, bố mẹ nó đã phải chịu bao sách nhiễu từ chính quyền, chỉ vì ông ngoại và dì nó là những người phản kháng chế độ?!
Bức thư chị Nhân gửi Chồng - Con trước lúc từ giã


Thứ Ba, 30 tháng 4, 2013

70 học trò nghèo sống trong lều rách nát


Không chỉ ăn cơm chấm muối, sống trong những căn lều nắng rọi, mưa dột, hàng chục học sinh nam và nữ THCS Trà Thọ (Quảng Ngãi) phải ở chung lều với nhau suốt nhiều năm.

THCS Trà Thọ huyện miền núi Tây Trà (Quảng Ngãi) có 130 học sinh nhưng do địa hình cách trở nên hơn nửa trong số này phải ở bán trú trong những căn lều tạm phía sau trường. Đầu năm học, phụ huynh lại chặt lồ ô và mua bạt mang đến dựng lều cho con. Trường hiện có 5 căn lều, mỗi căn rộng hơn chục m2.
Trường hiện có 5 căn lều, mỗi lều vỏn vẹn 10 m2 có khoảng 6 đến 12 học sinh nam, nữ ở các thôn: Tre, Nước Biếc..., nhà cách xa trường từ 10 đến 15 km ở trọ học. Trong căn lều chật hẹp khoảng 10 m2 nhưng có từ 6 đến 12 học sinh nam, nữ chen chúc ở trọ học. Thầy giáo Phạm Tô Ninh, Chủ tịch công đoàn trường THCS Trà Thọ cho biết, trường thành lập vào năm 2005, ban đầu học sinh xin ở trọ nhà đồng bào sinh sống gần khu vực trường học, đến năm 2008, Ban giám hiệu nhà trường thấy "bất tiện" nên kêu gọi phụ huynh học sinh dựng lều cho các em ở trọ. " Lều ẩm thấp, chật chội nắng nóng vào mùa khô, những hôm trời mưa thì mưa dột, các em phải vào các phòng học của trường ngủ tạm qua đêm", thầy giáo Ninh nói.
Em Hồ Thị Mai ở thôn Tre (học lớp 9) cho biết, các gia đình đều nghèo nên mỗi năm học chỉ dựng lều một lần. Đến giữa năm, mưa gió làm tốc mái, vách lều cũng hư hỏng nặng, nước tạt vào. Hơn nữa, do thiếu chỗ ở nên các bạn trai cũng ở chung lều với các bạn nữ cùng thôn.
Góc học tập của học sinh nội trú chủ yếu là trên giường ngủ. Cặp sách đến lớp treo lên vách hay cây cột lồ ô trong lều, đôi khi các học sinh ngồi học bài đầu gần chạm mái lều.
Chiếc giường vừa là nơi ngủ vừa là chỗ học bài, treo quần áo... Mái thủng lỗ chỗ khiến những hôm trời mưa các em phải lên ngủ trên các phòng học để khỏi bị ướt.
Ngoài giờ học tập, các em học sinh phải đi tìm củi ở khu vực đồi núi xung quanh trường mang về lều nấu ăn.
Ngoài giờ học tập, các em đi tìm củi ở khu đồi quanh trường mang về nấu ăn.
Bếp nấu ăn của các học sinh nơi đây là ba viên gạch ghép lại kê sát bên vách lều làm bằng thân lồ ô trống hoác.
Bếp nấu ăn đơn sơ của các học sinh nghèo.
Em Hồ Thị Phượng, học sinh lớp 8 ở thôn Tre, xã Trà Thọ- nhà ở cách xa trường 12 km phải ở lều trọ học ba năm qua. Vào dịp cuối tuần em phải đi bộ về nhà lấy gạo lúa rẫy (gạo đỏ) để có "cái ăn" ấm bụng ở lều trọ học suốt cả tuần.
Em Hồ Thị Phượng, học sinh lớp 8 ở thôn Tre, xã Trà Thọ- nhà ở cách xa trường 12 km phải ở lều trọ học ba năm qua. Vào dịp cuối tuần em phải đi bộ về nhà lấy gạo lúa rẫy (gạo đỏ) để có "cái ăn" ấm bụng ở lều trọ học suốt cả tuần.
Bữa cơm trưa đạm bạc của nữ sinh trọ học trường THCS Trà Thọ bên hủ muối hột, vài trái ớt sim rừng.
Bữa cơm trưa của các học sinh...
Nồi cơm và hủ muối hột, vài trái ớt sim rừng đủ làm "ấm bụng" cho học sinh ở lều trọ học.
... gồm nồi cơm, hũ muối hột, vài trái ớt sim rừng.
Cuộc sống ở lều dù còn nhiều thiếu thốn, khó khăn thế nhưng học sinh ở lều trọ học nơi đây vẫn bền bỉ bám lớp, bám trường hi vọng "cái chữ" giúp mình thoát nghèo, đổi đời.
Thầy Trương Quang Thọ, Hiệu trưởng THCS Trà Thọ tâm sự, mùa nắng có khoảng 70 học sinh ở lều trọ học nhưng mùa mưa lũ lại tăng lên tới 90 em bởi mực nước các sông suối dâng cao, đường đi khó khăn cách trở. Tháng 12/2012, một nhà thầu đã khởi công xây 10 phòng bán trú cho học sinh nhưng sau 3 tháng, móng nhà vẫn chưa hoàn thành, tiến độ ì ạch.
Trí Tín

Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2013

Bức Họa Gia Đình




Đời sống hôn nhân và hình ảnh về đời sống này đang bị ảnh hưởng của những trào lưu tiến hóa, những tư tưởng và lối sống tự do làm đảo lộn, và biến dạng. Nhiều người hoang mang và tự hỏi: "Thế nào là một hình ảnh trung thực về hôn nhân, và thế nào là đời sống hôn nhân đúng nghĩa?".
NHỮNG HIỆN TƯỢNG MỚI VỀ HÔN NHÂN
Ngày nay nhiều nơi trên thế giới, và riêng tại Hoa Kỳ, tình trạng trai gái sống chung với nhau không hôn thú đã trở thành một lối sống được xã hội chấp nhận. Trai gái, đàn ông đàn bà cứ việc sống thoải mái với nhau như vợ chồng, có con với nhau. Họ vẫn coi nhau như bạn trai, bạn gái hoặc tình nhân, chừng nào thấy không thích thì tìm người khác.
Về mặt luân lý và xã hội, không những danh từ ngoại tình không còn ý nghĩa nữa, mà những danh từ khác như hoang thai, chửa hoang thường dùng để gọi những phụ nữ không lập gia đình mà có thai và có con, cũng được thay thế bằng những mỹ từ như single mother (người mẹ đơn chiếc), hoặc có thai ngoài hôn nhân. Người ta không còn ngại ngùng, xấu hổ khi nói về tình trạng hoang thai, hay con của họ là những người con không cha nữa, vì ly dị đã mang tính cách phổ biến.
Theo thống kê tại Hoa Kỳ, những người mẹ đơn chiếc đã chiếm hơn 60% những gia đình do phụ nữ làm chủ, và những người cha đơn chiếc chiếm hơn 40% những gia đình do đàn ông làm chủ. Số gia đình còn lại khoảng 30% không do ai làm chủ cả. Số này bao gồm những thành phần độc thân, đồng tính luyến ái, hoặc trai gái sống chung với nhau.
Cũng theo tài liệu thống kê cho thấy trong năm 1991, có 2.371.000 vụ kết hôn thì đã có 1.187.000 vụ ly dị, tức trung bình cứ hai cặp kết hôn có một cặp ly dị.
Hiện tượng đồng tính luyến ái tại các quốc gia Âu Mỹ cũng đang làm biến thái đời sống hôn nhân bằng những cuộc tình và những hôn nhân giữa hai người cùng phái tính. Hai người đàn ông con trai, hoặc hai người đàn bà con gái sống với nhau như vợ chồng, trao đổi tình dục với nhau, và gọi nhau là người yêu.
Trong khi những cuộc tranh luận còn đang ồn ào xẩy ra về tính chất luân lý, xã hội, và tâm lý của nhóm người này, ngày 8 tháng 2 năm 1994, Nghị Viện Âu Châu với 159 phiếu thuận và 94 phiếu chống, đã cho phép những người đồng tính luyến ái được quyền làm hôn thú theo luật định, và cho những cặp vợ chồng này được quyền nhận những con nuôi. Một số tôn giáo, những nghi thức hôn nhân tôn giáo đã được cử hành cho những cặp vợ chồng này.
Đời sống hôn nhân và quan niệm về hôn nhân như trên đối với phần đông người Việt Nam là một điều không thể chấp nhận. Nói như thế không có nghĩa là ảnh hưởng của các trào lưu hôn nhân mới mẻ kia không vào được nhà của người Việt Nam. Một nghiên cứu gần đây của một giáo sư đại học ở San Diego đã cho biết tỷ lệ ly dị trong các gia đình người Việt tại Hoa Kỳ là 42%. Đó là chưa kể tình trạng của những người đã bỏ nhau nhưng không ly dị và đang sống với người khác như vợ chồng. Nhiều tác phẩm và nhiều nghiên cứu đã được viết hoặc trình bày về đề tài hôn nhân. Mỗi cuốn khảo cứu về một khía cạnh khác nhau với những lối nhìn khác nhau. Đời sống hôn nhân phức tạp thế nào, các sách vở viết về hôn nhân cũng phức tạp như vậy.


Có những tác phẩm trình bày khuynh hướng trữ tình, tự do luyến ái, tự do kết hôn, hôn nhân đồng tính luyến ái, hoặc hôn nhân lãng mạn. Đời sống hôn nhân theo khuynh hướng và lối sống của thời đại bao gồm giữa tình yêu, tình bạn, và tiền bạc. Thí dụ, hai vợ chồng sống chung với nhau dưới một mái nhà, nhưng tiền của ai làm người nấy giữ. Tiền ăn, tiền ở, tiền trang trải việc nuôi nấng con cái mỗi người bỏ ra một nửa. Một cuộc sống sòng phẳng, tự do và không bị ràng buộc. Nếu không thấy thoải mái với nhau, họ sẵn sàng ly dị và đi tìm một cuộc tình mới một cách tự nhiên, không thắc mắc.
Nhưng đa số các tác phẩm trình bày về hôn nhân đều ca tụng nếp sống gia đình, đề cao những giá trị hôn nhân gia đình, đề cao trách nhiệm của hôn nhân như bổn phận người chồng, bổn phận người vợ, tình yêu, và lòng chung thủy. Và mặc dù viết về hôn nhân và những giá trị của hôn nhân, phần lớn các tác phẩm này chú trọng nhiều đến hình thức tiểu gia đình, khía cạnh tự do hôn nhân, thái độ bình quyền, hình thức chia sẻ trách nhiệm và bổn phận.
Riêng đối với những tác phẩm trình bày về hôn nhân bằng Việt ngữ, đa số thuộc loại dịch thuật, diễn tả những mô thức hôn nhân xa lạ với thực tế xã hội và cuộc sống người Việt. Do đó, đối với độc giả Việt Nam, những tác phẩm như thế chỉ đóng vai trò giới thiệu hơn là giáo dục, hoặc hướng dẫn.
Đối với những tác phẩm do người Việt viết hay sáng tác, phần lớn thuộc loại phóng tác. Nội dung thường chứa đựng những lời Thánh Kinh, những lời răn dạy của Khổng Tử, những câu ca dao, tục ngữ về hôn nhân và gia đình. Mục đích những tác phẩm này là nêu lên những lý tưởng và mẫu mực cho đời sống hôn nhân, trình bày những mẫu gia đình có nề nếp gia phong và lý tưởng. Khi cần giải quyết các vấn đề đang làm đổ vỡ nhiều gia đình, phần lớn các tác giả chỉ quan tâm đến những khía cạnh luân lý, đạo đức, hay thanh danh gia đình, mà ít khi đề cập đến những gì đang xẩy ra chung quanh cuộc sống có ảnh hưởng đến hạnh phúc hôn nhân.
Trước những biến thái về hôn nhân ngày càng lan rộng do ảnh hưởng của những triết lý sống mới, ai cũng cho rằng những hiện tượng tha hóa đó đang gây nên những rạn nứt, làm sụp đổ nền móng của tòa nhà hôn nhân, và làm biến dạng gia đình và văn hóa thế giới. Nếu chỉ quảng diễn hôn nhân theo những khuôn mẫu đạo đức cổ kính và truyền thống sẵn có, ta dễ trở thành xa lạ và lập dị. Vì thế, muốn thăng tiến hôn nhân, muốn giữ được bản chất giá trị của nền tảng gia đình, điều cần thiết là phải nghiên cứu và tìm được những lý do tại sao khiến nhiều người coi thường, và không quí trọng những giá trị đó nữa.

CÁI NHÌN KHÁI QUÁT VỀ HÔN NHÂN
Hôn nhân có thể được định nghĩa bằng nhiều cách. Tùy theo phong tục, tập quán của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, và cũng tùy theo tiến trình tiến hóa của nhân loại, hôn nhân được quan niệm thế này hoặc thế khác. Nhưng ý nghĩa cuối cùng và căn bản nhất của hôn nhân vẫn là một cuộc sống lứa đôi giữa người chồng và người vợ.
Trong cuộc sống hôn nhân, người chồng và người vợ được trói buộc bằng những sợi giây vô hình nhưng bền vững gồm sợi giây tình cảm, sợi giây tình yêu, sợi giây tình dục, sợi giây luật pháp, sợi giây luân lý, và sợi giây tinh thần. Tất cả những ràng buộc này có một mục đích rõ ràng là nhằm củng cố, thắt chặt mối tình và đời sống của hai người, giúp họ vượt qua những khủng hoảng, những sóng gió cuộc đời, và để họ cùng nhau tạo lập một cuộc sống hạnh phúc.

NHÃN QUAN TINH THẦN:
Trong khi ảnh hưởng của trào lưu tư tưởng mới đang biến đổi đời sống hôn nhân, đôi khi thái quá đến trở thành biến dạng đời sống này tại nhiều quốc gia tân tiến trên thế giới, thì đối với phần đông người Việt Nam, hôn nhân vẫn được tôn trọng qua hình thức tôn giáo và truyền thống.
Đa số người Việt Nam vẫn còn nhìn hôn nhân bằng một cái nhìn mang nhiều tính chất thần linh. Dưới nhãn quan tôn giáo, hôn nhân là một cơ duyên trời định.
Khi bàn về hôn nhân, phần đông người Việt Nam cho rằng hôn nhân của họ là do trời cao đã xếp đặt, đã thúc đẩy, và đã tạo cơ hội để họ nối kết với nhau. Hình ảnh ông tơ, bà nguyệt chính là những hình ảnh thực tế hóa của suy luận tâm linh về ý nghĩa tiền định trong hôn nhân đối với người Việt Nam.
Để diễn đạt ý nghĩa quan trọng và siêu nhiên của niềm tin đối với hôn nhân, nhiều người đã liên kết hôn nhân của họ với định mệnh, và coi đó như "thiên duyên", "duyên phận", hay "duyên kiếp". Một số người còn mê tín trao phó cả tương lai của mình cho số mệnh mà họ nghĩ là đã được sắp đặt từ Thượng Đế.
Trong ngày vui mừng của đôi tân hôn, mọi người trong gia đình, gia tộc hai bên đều cầu chúc cho cô dâu, chú rể sống lâu trăm tuổi, sắt cầm hòa hợp, đông con, nhiều cháu. Những lời chúc này phản ảnh sự tin tưởng vào hoa trái tinh thần và phúc lộc cao cả của đời sống hôn nhân.
Lịch sử văn hóa Việt Nam đã cho thấy trong quá khứ, xã hội Việt Nam vì bị ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng Nho Giáo, nên quan niệm hôn nhân trên ngoài việc nâng cao giá trị đời sống tinh thần của những ai sống trong đời sống hôn nhân, nó cũng là một điều yên ủi, có khả năng làm lắng dịu những bùng nổ trong tâm tư nhiều người, nhất là nữ giới giữa một xã hội trọng nam, khinh nữ. Giữa một triết lý sống mà người đàn ông được coi như chúa tể trong gia đình và ngoài xã hội, còn người đàn bà chỉ là phụ thuộc.
Ngày nay, ảnh hưởng của những tư tưởng trên tuy không còn mạnh mẽ nữa, nhưng nhiều đàn ông Việt Nam vẫn cố bám bứu vào đó, và vẫn còn ngụy biện ý nghĩa đạo đức khi dùng tam tòng, tứ đức của Nho Giáo để giải thích những hành động sai trái của họ trong hôn nhân. Tuy nhiên, đối với nhiều phụ nữ Việt Nam lúc này, những lối giải thích đó đã không trả lời thỏa đáng những vấn nạn về vai trò của nữ giới trong hôn nhân, giữa một thế giới đang biến chuyển do những tư tưởng nam nữ bình quyền, tự do yêu thương, bổn phận và trách nhiệm.
Nhưng bên ngoài lớp vỏ sần xùi và nặng nề của hình thức mà nhiều người Việt nam vẫn thường cho là đạo đức đó, hôn nhân của người Việt Nam có rất nhiều điểm tương đồng với quan niệm hôn nhân của những dân tộc ảnh hưởng Kitô Giáo. Khi đề cập đến hôn nhân theo nhãn quan tôn giáo, phần đông người Việt Nam tuy không dùng từ ngữ "bí tích" hoặc "ơn gọi" để nói về cuộc sống này, nhưng vẫn coi hôn nhân như một sự ràng buộc tinh thần. Ngoài ra, những hành động của đời sống hôn nhân cũng được coi như một đạo lý sống, gọi là đạo vợ chồng. Người ta có thể nhìn thấy tính chất tôn giáo trong bất cứ một đám cưới nào tại Việt Nam. Trong ngày thành hôn, cô dâu và chú rể phải đến thánh đường, chùa miếu, thánh thất, hoặc trước bàn thờ tổ tiên tại tư gia để trao cho nhau lời hôn thệ, và để được chúc phúc.
Đạo lý hôn nhân của người Việt Nam, nếu được phân tích một cách kỹ lưỡng và khách quan, nó cũng diễn đạt cùng một tư tưởng mà Kitô Giáo đã quan niệm về hôn nhân. Theo Kitô Giáo, cuộc sống hôn nhân bắt nguồn từ Thượng Đế. Thánh Kinh Kitô Giáo kể rằng, trong buổi đầu tạo dựng, Thượng Đế đã tạo nên con người bằng bùn đất, thổi sinh khí vào và làm cho sinh động. Sau đó, Ngài cho Adong ngủ say, lấy một xương sườn của Ông làm nên Evà, rồi dẫn đến trước mặt Adong, khiến Ông đã sửng sốt thốt lên: "Đây là xương của xương tôi, thịt của thịt tôi" (Gn 2:23). Thượng Đế đã chúc phúc cho sự kết hợp giữa hai người khi nói với họ: "Hãy sinh sản ra nhiều trên mặt đất, và hãy thống trị trái đất"(Gn 1:28). Có lẽ do lời chúc phúc này mà người Việt Nam coi việc đông con, nhiều cháu là hoa trái tốt của hôn nhân.
Bức tranh sáng tạo, và đôi vợ chồng đầu tiên của lịch sử nhân loại đó, sau này đã được Đức Kitô vẽ lại khi trả lời những tranh biện của người Do Thái đương thời về luật ly dị. Lợi dụng dịp này, Ngài đã tái xác định giá trị tinh thần của hôn nhân, và nói với họ rằng từ đầu Thượng Đế đã không có ý định cho phép con người ly dị. Rồi Ngài khẳng định: "Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân ly" (Mt 19:6). Điều Đức Kitô trả lời cho người Do Thái, cũng chính là tư tưởng về đạo sống vợ chồng của người Việt Nam, đó là "nhất phu, nhất phụ" - một vợ, một chồng.



BỔN PHẬN VÀ TRÁCH NHIỆM:
Như trên vừa trình bày, quan niệm hôn nhân của người Việt Nam đã bị ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng và đạo lý của Nho Giáo. Những tư tưởng này đặt nặng bổn phận và trách nhiệm hôn nhân, trực tiếp liên quan tới đời sống đại gia đình.
Nhưng cũng như sự lạm dụng lối diễn đạt ý nghĩa tinh thần, trách nhiệm và bổn phận hôn nhân của Nho Giáo đã bị bóp méo qua những cắt nghĩa lệch lạc hoặc chủ quan của một số người. Vì thế, khi bước vào đời sống hôn nhân, nhiều thiếu nữ đã khóc không phải chỉ vì vui với đời sống mới, nhưng vì lo sợ cho viễn ảnh tương lai của mình. Bị đối xử tàn tệ ở nhà chồng. Bị làm lụng vất vả và bị sai khiến như những người ở. Nhiều phụ nữ trong xã hội Việt Nam, cho đến nay vẫn còn bị ám ảnh rằng họ phải có nhiệm vụ sinh con, để chồng có con nối dõi tông đường. Vì thế, để diễn tả biến cố một người con trai và một người con gái bước vào đời sống hôn nhân, người Việt Nam đã dùng từ ngữ "lập gia đình" hay "đi gánh vác".
Thật ra, ý nghĩa cuối cùng của hôn nhân theo Nho Giáo, không phải chỉ là những gò bó và trói buộc bằng những luật lệ vô lý, khe khắt, và thiếu uyển chuyển. Cũng không phải chỉ chú tâm vào những trách nhiệm đối với nhà chồng, nhà vợ, với họ hàng bên chồng hay họ hàng bên vợ, với đại gia đình hai bên. Trách nhiệm chính của hôn nhân phải hiểu là những bổn phận trực tiếp liên quan đến một gia đình mới giữa hai vợ chồng, và những trách nhiệm liên quan đến cuộc sống mới của hai người.
Khổng Tử luôn đề cao vai trò đạo đức trong mọi góc cạnh của cuộc sống con người, kể cả đời sống hôn nhân. Như vậy, đạo vợ chồng đúng nghĩa theo Nho Giáo, trước hết là phải chu toàn cách tốt đẹp bổn phận và trách nhiệm của người chồng đối với vợ, và người vợ đối với chồng. Ở quan niệm này ta mới tìm thấy ý nghĩa đẹp đẽ mà vợ chồng thường dùng gọi nhau, và đã được thực tế hoá bằng một từ ngữ hết sức đơn sơ nhưng rõ ràng, đó là người vợ hay người chồng nói về nhau trước mặt người khác là "nhà tôi". Nhà tôi hôm nay bận công việc ở sở làm. Nhà tôi mới đi công chuyện.
Hình ảnh diễn tả cuộc sống mới, phải bắt nguồn từ một căn nhà nhỏ bé trong đó có hai người đã thề nguyền yêu nhau, và cùng nhau xây dựng hạnh phúc. Chính trong căn nhà tinh thần của đời sống hôn nhân, và căn nhà vật chất của hai người đang ở đó, tình yêu họ sẽ triển nở, và những người con trai, con gái của họ sẽ chào đời.
Rồi trong trách nhiệm tương thân, tương ái, và đồng thuận, họ mới có thể gọi nhau bằng "mình". Mình ơi! Tôi yêu mình. Mình ơi! Tôi thương mình. Đại danh từ tôi, ở những câu nói này tuy rất mộc mạc, đơn sơ nhưng nói lên và đại diện rõ ràng cho một người, mà người đó không phải là ai khác hơn là chính tôi.
Vợ chồng gọi nhau bằng mình tuy không lãng mạn, tình tứ như khi gọi nhau bằng cưng, bằng người yêu, bằng em, hoặc bằng anh. Nhưng cưng, người yêu, em, hoặc anh vẫn nói lên một cái gì còn xa lạ, còn cách biệt, và không cận kề, không thuộc trọn về tôi, như khi tôi nói với chính mình tôi.
Mình là gì? Nếu không phải là "xương của xương tôi, thịt của thịt tôi", mà Adong đã vui mừng diễn tả khi đứng trước người yêu của Ông. Và mình là gì, nếu không phải là chính con người của tôi, của anh, hay của chị. Gọi vợ hay chồng bằng "mình", có lẽ là một lối diễn tả đẹp đẽ nhất, thân thiết nhất, mà chỉ người Việt Nam mới có.
Vì mình là tôi, và tôi là mình, nên dẫn đến ý nghĩa của sự kết hợp vợ chồng một cách trọn vẹn, chặt chẽ đến độ: "Hai ta tuy hai mà một, tuy một mà hai". Hai tâm hồn, hai thân xác nhưng sẽ trở thành một trong hôn nhân. Ý nghĩa này chỉ tìm thấy trong hôn nhân mà thôi. Kitô Giáo cũng đề cập tới sự kết hợp này qua việc trình bày về hôn nhân giữa Adong và Evà: "Người đàn ông sẽ luyến ái vợ mình, và cả hai trở nên một huyết nhục" (Gn 2:24).

Trần Mỹ Duyệt (nguyenduyan.net)